Những cánh tay nối dài chạm đến giấc mơ thoát nghèo của đồng bào dân tộc

Không để ai bị bỏ lại phía sau, chính sách dân tộc đang mở đường cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vượt nghèo, hội nhập và làm chủ vận mệnh phát triển.
Gia Lai phát triển chợ vùng sâu, mở lối sinh kế bền vững Quảng Ngãi: Độc đáo lễ mừng nhà mới của đồng bào Hrê Na Võ Nhai, gà Phú Bình, chè Trại Cài: Thái Nguyên ‘làm thương hiệu’ từ sản phẩm bản địa

Những “trợ lực mềm” quan trọng cho đồng bào

Trong hành trình phát triển đất nước, đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi luôn là bộ phận không thể thiếu trong khối đại đoàn kết toàn dân. Thế nhưng, do điều kiện địa lý, lịch sử và nguồn lực phát triển không đồng đều, khu vực này vẫn còn là “vùng trũng” của các chỉ số kinh tế - xã hội. Trước thực tế ấy, những năm gần đây, Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành hàng loạt chính sách nhằm “bù đắp thiệt thòi”, hỗ trợ thiết thực để đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên làm chủ cuộc sống, từng bước thoát nghèo bền vững và hội nhập phát triển.

Trong số các chính sách lớn, Nghị quyết số 88/2019/QH14 của Quốc hội và Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ nổi bật như “kim chỉ nam” cho công tác dân tộc trong giai đoạn 2021 - 2030. Theo đó, Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được triển khai với tổng nguồn vốn lên đến 137.664 tỷ đồng giai đoạn I (2021 - 2025).

Chương trình này được thiết kế với 10 dự án thành phần, bao gồm: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; Hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế; Hỗ trợ phát triển giáo dục - đào tạo, y tế; Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống; Tăng cường cơ sở hạ tầng thiết yếu, tạo động lực liên vùng…

Những cánh tay nối dài chạm đến giấc mơ thoát nghèo của đồng bào dân tộc
Chính sách hỗ trợ du lịch ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số giúp hồi sinh nghề dệt thổ cẩm ở xã Tân Phượng, huyện Lục Yên, Yên Bái. Ảnh: Anh Dũng

Ngoài ra, Nghị định 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc và loạt chính sách tín dụng ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội (Chương trình cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo…) cũng là những “trợ lực mềm” quan trọng cho đồng bào tiếp cận vốn, phát triển sản xuất.

Hỗ trợ không chỉ là “trao cần câu” Không đơn thuần là hỗ trợ “cho không”, chính sách dân tộc hiện nay hướng đến tư duy “trao cần câu, dạy cách câu cá và kết nối thị trường”.

Tại Lào Cai, mô hình tổ hợp tác trồng dược liệu dưới tán rừng của người Dao ở xã Tả Phìn (Sa Pa) đã giúp nhiều hộ dân có thu nhập từ 70 - 100 triệu đồng/năm. Chính sách hỗ trợ giống cây, tập huấn kỹ thuật từ chương trình dân tộc đã giúp bà con mạnh dạn chuyển đổi từ cây lúa kém hiệu quả sang cây sa nhân tím, đinh lăng...

Ở Kon Tum, dự án hỗ trợ bò sinh sản từ nguồn vốn Chương trình 1719 đã giúp hơn 500 hộ dân tộc thiểu số có tư liệu sản xuất ổn định, từng bước thoát nghèo.

Tại Sơn La, chính sách hỗ trợ xây dựng mô hình du lịch cộng đồng đã biến bản Hua Tạt (xã Vân Hồ) thành điểm đến thu hút du khách trong và ngoài nước. Người Mông, Thái giờ đây không chỉ làm nông mà còn làm dịch vụ, bán đặc sản, giữ gìn văn hóa bản địa để “hái ra tiền”.

Những cánh tay nối dài chạm đến giấc mơ thoát nghèo của đồng bào dân tộc
Những cánh tay nối dài chạm đến giấc mơ kinh tế của bà con dân tộc (Ảnh minh hoạ)

Không để chính sách… ngủ quên trên giấy

Dễ thấy rằng, các chính sách dân tộc hiện nay đã thay đổi cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, mở rộng đối tượng, tích hợp liên ngành, trao quyền cho địa phương chủ động lồng ghép nguồn lực. Tuy nhiên, để “trái ngọt” từ chính sách thực sự lan tỏa, còn đó những điều cần thẳng thắn nhìn nhận.

Vấn đề lớn nhất hiện nay là khâu thực thi. Ở một số địa phương, tình trạng chậm phân bổ vốn, thiếu sự phối hợp liên ngành, năng lực cán bộ cơ sở hạn chế… khiến cho chính sách “rất hay nhưng về đến dân lại lặng im”. Một số nơi còn mang nặng tư tưởng bao cấp, dẫn đến tâm lý trông chờ, ỷ lại.

Vì vậy, bên cạnh nguồn lực tài chính, cần đầu tư nguồn lực con người, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc ở cơ sở. Đồng thời, cần tăng cường giám sát xã hội, công khai tiến độ triển khai và hiệu quả các dự án ngay từ cấp thôn bản để chính sách đến đúng người, đúng nhu cầu, đúng thời điểm.

Bên cạnh đó, chính sách đúng là chưa đủ. Chính sách phải sống trong đời sống của người dân, phải “nói được tiếng nói” của bản làng, thôn xóm. Bên cạnh việc “gỡ khó” về hạ tầng, sinh kế, nhà nước cần hỗ trợ đồng bào tiếp cận thị trường, đưa sản phẩm vùng cao xuống đồng bằng, “đưa đặc sản lên sàn” để hòa nhịp cùng chuyển đổi số.

Có một thực tế, ngày nay những cô gái người Dao, Mông tại Hà Giang đang livestream bán mật ong, thổ cẩm, rượu ngô… ngay từ sườn núi. Internet nếu được đầu tư đúng sẽ trở thành “con đường cao tốc” mới cho vùng cao phát triển kinh tế.

Thật vậy, chính sách dân tộc những năm gần đây đã tạo ra một “cuộc cách mạng lặng lẽ” ở vùng sâu, vùng xa. Nhưng để chuyển mình thật sự, cần một hệ sinh thái đồng bộ: chính sách linh hoạt, cơ chế giám sát rõ ràng, nguồn lực đủ mạnh và trên hết là niềm tin từ chính những người dân. “Khi đồng bào được hỗ trợ đúng cách, họ không chỉ thoát nghèo, họ làm giàu bằng chính trí tuệ, văn hóa và sức mạnh bản sắc của mình”.

Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số ít người với khoảng trên 14 triệu người, chiếm khoảng 14% dân số, phân bố trên địa bàn 58/63 tỉnh, thành cả nước.

Ngân Thương

Bản quyền thuộc về "Báo Công Thương Điện Tử", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.