
Trong câu chuyện xuất khẩu nông sản nói chung và nông sản vùng dân tộc thiểu số và miền núi nói riêng, có thể nói, thị trường Bắc Âu chính là ‘phòng thử nghiệm’ tiêu dùng của thế giới do luôn đi đầu trong các xu hướng. “Ở đây, mọi sản phẩm không chỉ được đánh giá bằng giá cả và hương vị, mà còn qua giá trị văn hóa, giá trị môi trường và giá trị nhân văn đi kèm”, bà Nguyễn Thị Hoàng Thúy, Vụ trưởng, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, kiêm nhiệm thị trường Bắc Âu, mở đầu câu chuyện với phóng viên Báo Công Thương. Theo bà Nguyễn Thị Hoàng Thuý, thị trường Bắc Âu vừa là cơ hội, vừa là “bài kiểm tra tổng hợp” về minh bạch, bền vững và công bằng - những chuẩn mực đang định nghĩa tương lai của thương mại nông sản.

Không dừng ở nhận định chung, bà Thúy phác họa rõ ba “gam màu” nhu cầu của người tiêu dùng khu vực này. Thứ nhất là tư duy xanh: họ muốn biết sản phẩm đến từ đâu, trồng thế nào, có chứng nhận gì; các chứng chỉ như Organic, Fairtrade, Rainforest Alliance trở thành “giấy thông hành” gần như bắt buộc. Thứ hai là câu chuyện bền vững và công bằng: sản phẩm phải gắn với cộng đồng, sinh kế và văn hóa bản địa. Thứ ba là khác biệt và trải nghiệm: họ đã quen với cà phê Brazil, Ethiopia hay gia vị Ấn Độ. Điều họ tìm là trải nghiệm mới - một tách Arabica Việt có hương trái cây trong trẻo, hay hạt tiêu vùng đất đỏ bazan mang dư vị riêng.
Từ “phòng thử nghiệm” này, có thể thấy, trong bối cảnh xuất nhập khẩu hàng hoá ngày càng hướng tới tiêu chuẩn bền vững, rào cản kỹ thuật hiện lên rất cụ thể. TS Lê Duy Bình – Giám đốc Economica Việt Nam nhấn mạnh: Doanh nghiệp Việt phải vượt qua hàng loạt các tiêu chuẩn ngày càng khắt khe của các thị trường.
Đơn cử như giới hạn dư lượng (MRLs), kiểm soát vi sinh, độc tố nấm mốc, kim loại nặng, đáp ứng truy xuất nguồn gốc cùng hệ chứng chỉ quốc tế, và đảm bảo bao bì - nhãn mác - môi trường theo chuẩn EU. Chưa kể logistics: chưa có tuyến vận tải trực tiếp khiến hàng phải trung chuyển qua các cảng lớn ở Hà Lan, Đức, Bỉ, làm tăng chi phí và kéo dài thời gian. Một sai sót nhỏ cũng có thể khiến lô hàng bị từ chối.
Ở chiều cơ hội, bà Thúy cho biết Thương vụ đang tăng kết nối với hệ thống bán lẻ, nhà nhập khẩu, đưa doanh nghiệp Việt sang hội chợ Bắc Âu và đưa nhà mua hàng về khảo sát vùng nguyên liệu, nhà máy tại Việt Nam; đồng thời hỗ trợ tiếp cận chứng nhận quốc tế, mở kênh thương mại điện tử xuyên biên giới, và làm việc với cảng Gothenburg (Thụy Điển), Aarhus (Đan Mạch) để thúc đẩy vận tải trực tiếp, giảm chi phí - thời gian. Những chương trình này hướng tới mục tiêu duy nhất: giúp nông sản Việt, nhất là sản phẩm vùng dân tộc thiểu số, thâm nhập sâu vào hệ thống phân phối Bắc Âu thay vì dừng ở vai “nhà cung cấp nguyên liệu”.
Ở phía doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Huyền, Tổng Giám đốc Công ty CP Quế Hồi Việt Nam (Vinasamex) nhấn mạnh chiến lược đi cùng nông dân ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Lạng Sơn, Lào Cai và cả Quảng Trị để nâng cấp vùng nguyên liệu quế hồi theo chuẩn quốc tế. Bà lý giải: thổ nhưỡng, khí hậu quyết định hương vị của gia vị; chọn đúng vùng là chọn đúng “căn cước” sản phẩm, từ đó phục vụ đa ngành thực phẩm, đồ uống, dược phẩm. Việt Nam hiện có xấp xỉ 200.000 ha quế và 60.000 ha hồi - một nền tảng đủ lớn để “hữu cơ hóa”, chuẩn hóa và đa dạng hóa đầu ra.

Để đáp ứng thị trường khó tính, Vinasamex không chỉ “nói hữu cơ”, mà vận hành hữu cơ. Hiện tại, Vinasamex đang tuân thủ khoảng 16 chứng nhận quốc tế; mời chuyên gia nước ngoài sang hỗ trợ kiểm soát sâu bệnh, khuyến nghị phân bón phù hợp tiêu chuẩn hữu cơ; cải tiến dụng cụ thu hái để tăng năng suất và an toàn cho bà con. Những chi tiết tưởng nhỏ nhưng là “đinh vít” của chất lượng ổn định - thứ mà nhà nhập khẩu Bắc Âu luôn kiểm tra tới tận vườn.
Và khi chuyển đổi mô hình sang hữu cơ đi cùng chế biến sâu (bột gia vị, tinh dầu phục vụ mỹ phẩm, dược phẩm), giá bán đã tăng 20-30% so với trước, kéo theo thu nhập hộ nông dân cải thiện. Trục “vùng trồng chuẩn - chế biến sâu - chứng chỉ minh bạch” vì thế trở thành công thức xuất khẩu cho không chỉ quế hồi, mà cả nhóm cà phê, hồ tiêu, gia vị bản địa của vùng cao.
Câu chuyện của Vinasamex là một tấm gương về nâng cấp chuỗi giá trị ngay tại nguồn. Nhưng bà Huyền cũng thẳng thắn: cạnh tranh không hề đơn giản. “Không chỉ Việt Nam xuất vào EU. Cà phê có Brazil, Colombia, Ethiopia; quế hồi thì Ấn Độ, Sri Lanka là ‘cường quốc’, có thương hiệu mạnh. Đó là những điều chúng ta phải học hỏi”. Từ góc nhìn “đối thủ”, bài học rút ra rất rõ: nếu không đi bằng chất lượng - truy xuất - thương hiệu, thì lợi thế giá chỉ là “bình phong” ngắn hạn.

Nhìn từ ống kính kinh tế, TS Lê Duy Bình, Giám đốc Economica Việt Nam cảnh báo về cái bẫy sản lượng. Ông cho rằng trong bối cảnh tiêu chuẩn môi trường – xã hội ngày càng chặt, mở rộng vùng trồng hiện giờ không phải là chiến lược thông minh nhất; chúng ta buộc phải nâng giá trị thương hiệu và giá trị gia tăng của chuỗi, không chỉ với gia vị, mà cả cà phê, ca cao và nhiều nông sản khác.

Luận cứ của TS Bình dựa vào xu hướng cầu: thị trường gia vị toàn cầu được dự báo tăng 4-5%/năm trong 20 năm tới, tức có thể gấp đôi quy mô hiện nay. Nhưng phần giá trị bổ sung (từ chế biến, chiết xuất, chuẩn hóa chất lượng, thương hiệu) mới là nơi Việt Nam còn khoảng trống lớn: “Làm thế nào để từ 100g hồ tiêu xuất khẩu, chúng ta thu về nhiều hơn thay vì để người bán lẻ Bắc Âu lấy phần lớn giá trị?” Câu hỏi này không chỉ dành cho hồ tiêu, mà cho cả quế - hồi, cà phê, gạo đặc sản vùng cao khi bước vào phân khúc cao cấp.
Cùng lúc, ông lưu ý thị trường trong nước 100 triệu dân “gấp bốn lần” Bắc Âu. Điều đó buộc doanh nghiệp phải đồng thời gìn giữ tiêu chuẩn quốc tế ngay cả với hàng bán nội địa, bởi chính sự đồng nhất về chất lượng, bao bì, truy xuất sẽ tạo đòn bẩy thương hiệu khi đi ra ngoài. Tiêu dùng có trách nhiệm, quan tâm môi sinh, an toàn thực phẩm, câu chuyện sinh kế và bình đẳng, theo ông, “sẽ là xu thế lâu dài” và chúng ta phải chuẩn bị ở nhiều góc độ để theo kịp.

Ở tầng thể chế, EVFTA và các FTA thế hệ mới tạo hành lang vào thị trường khó tính. Nhưng hiệp định chỉ là khung; Thương vụ chính là “nhạc trưởng” đưa doanh nghiệp hiểu luật chơi, tuân thủ và kết nối đúng mạch. TS Lê Duy Bình đánh giá cao vai trò này: hỗ trợ thông tin, giải thích quy tắc, tiêu chuẩn, cách tuân thủ, để hàng Việt tận dụng FTA một cách hiệu quả nhất, nhất là với nông sản. Nói cách khác, FTA mở cửa, Thương vụ dẫn lối, doanh nghiệp phải bước chắc.

Cùng quan điểm, bà Thúy đưa ra chương trình hành động rất cụ thể: đoàn doanh nghiệp Bắc Âu về Việt Nam dự Hội chợ quốc tế nguồn hàng Việt Nam (4-6/9 tại TP.Hồ Chí Minh) và các hoạt động kết nối song hành. Tinh thần “đi, đến, nhìn thấy” nhằm rút ngắn khoảng cách niềm tin, để nhà mua hàng tận mắt xem vùng trồng, tận tay kiểm tra nhà máy - điều mà thị trường Bắc Âu coi trọng bậc nhất.
Đối với các địa phương, các ngành hàng đang tập trung chuẩn hoá vùng nguyên liệu để sản xuất, xuất khẩu bền vững. Theo ông Trịnh Đức Minh, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột, việc sản xuất theo quy chuẩn đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa khối công và tư, từ việc ứng dụng khoa học công nghệ, quy trình canh tác có chứng nhận đến nâng cao ý thức cộng đồng.

Thay vì tăng diện tích, tỉnh Đắk Lắk đang tập trung vào chiều sâu, phát triển theo hướng xanh và bền vững. Cụ thể, tỉnh sẽ phát triển cà phê đặc sản, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung có chứng nhận và truy xuất nguồn gốc, đồng thời thu hút đầu tư vào chế biến sâu. Một tín hiệu tích cực là các nhà rang xay thế giới đã bắt đầu quan tâm hơn đến cà phê có chỉ dẫn địa lý Buôn Ma Thuột.
Đồng thời, tỉnh cũng triển khai nhiều giải pháp chiến lược như: Ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý sản xuất cà phê bền vững bằng việc xây dựng phần mềm quản lý, bản đồ số lý lịch vườn cây; vận động nông dân tham gia các tổ hợp tác, hợp tác xã để khắc phục tình trạng sản xuất manh mún và tạo ra các vùng nguyên liệu đồng nhất. Đắk Lắk cũng tăng cường mời gọi các nhà đầu tư lớn, có kinh nghiệm vào các dự án chế biến tinh và hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến như HACCP và ISO 22000.
Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Hoàng Danh Hữu, nhà sáng lập MISS EDE, một thương hiệu cà phê Robusta từ Đắk Lắk đã chinh phục nhiều thị trường khó tính như Hàn Quốc, Mỹ, Nga và Singapore, chia sẻ kinh nghiêmk: "Nhờ vào mô hình canh tác bền vững, truy xuất nguồn gốc đến từng lô đất và chế biến theo tiêu chuẩn SCA, Robusta Việt Nam của MISS EDE đạt chất lượng đặc sản, được chấm điểm cao trên 80/100. Điều này giúp sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang các thị trường khó tính".
MISS EDE còn là một trong những thương hiệu tiên phong tại Việt Nam đáp ứng đầy đủ quy định EUDR của Liên minh châu Âu (quy định chống phá rừng), với hệ thống QR truy xuất nguồn gốc minh bạch.

Nhờ tận dụng tốt cơ hội từ các hiệp định song phương và đa phương, trong đó có Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA), nhiều loại trái cây đặc sản khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi như cam Cao Phong, quýt Cao Phong, vải thiều… và các đặc sản khác như mật ong, miến dong, tinh bột nghệ, chanh đào, trà giảo cổ lam… đã có mặt tại thị trường nước ngoài quốc thông qua các doanh nghiệp.
Theo Công ty cổ phần R.Y.B - doanh nghiệp chuyên xuất khẩu các sản phẩm nông sản miền núi ra thế giới, các sản phẩm nông nghiệp khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có tiềm năng xuất khẩu rất lớn, nhất là sản phẩm cây có múi như cam Cao Phong, bưởi Diễn, bưởi ruột đỏ.
Với phương châm, xuất khẩu không chỉ tạo ra nguồn tài chính ổn định, mà còn giúp nông dân thay đổi tư duy canh tác, từ bỏ tập quán lạc hậu, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông sản để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp đã đồng hành, gắn bó với người nông dân từ khâu giống, chăm sóc, bảo vệ thực vật đến thu hoạch, chế biến sản phẩm.
Không chỉ riêng các sản phẩm quế hồi mà hiện nay nhiều hợp tác xã đã đẩy mạnh liên kết để xuất khẩu sang Hoa Kỳ, Trung Quốc, Úc… mỗi năm, mang về vài trăm triệu USD. Từ những ngọn núi ngút ngàn với những cây chè cổ thụ hàng trăm năm tuổi, từng túi chè Shan tuyết khô đã có mặt tại các cửa hàng cao cấp ở Tokyo. Cà phê Tây Nguyên cũng tự hào là một trong những sản phẩm được ưa chuộng bậc nhất thế giới với hệ thống phân phối rộng khắp. Đó là minh chứng rằng, khi sản xuất gắn với tiêu chuẩn quốc tế, sản phẩm của đồng bào dân tộc hoàn toàn có thể vươn ra biển lớn.