
Là một trong những địa phương có nhiều điểm mạnh về nông sản, từ năm 2024 đến nay, tỉnh Tuyên Quang đã có bước tiến rõ rệt trong xuất khẩu nông sản, đặc biệt là các sản phẩm OCOP và đặc sản địa phương. Tháng 10/2024, tỉnh Tuyên Quang lần đầu tiên đưa 6 sản phẩm sang thị trường châu Âu, cụ thể là Vương quốc Anh, gồm trà ổi, hoa đu đủ đực ngâm mật ong, chuối sấy dẻo, trà túi lọc đậu đen xanh lòng, siro chanh và siro tắc.

Bước sang năm 2025, danh mục xuất khẩu của tỉnh Tuyên Quang được mở rộng lên 7 sản phẩm khi gần 8.000 quả bưởi Soi Hà - loại quả đạt chỉ dẫn địa lý và được trồng theo tiêu chuẩn VietGAP cũng được xuất khẩu sang thị trường này. Để đảm bảo chất lượng nông sản xuất khẩu, vùng trồng bưởi Soi Hà đã được mở rộng lên hơn 3.600 ha, trong đó có trên 268 ha sản xuất hữu cơ và 8 ha đạt chuẩn GlobalGAP. Cùng với việc đầu tư sản xuất sạch, Tuyên Quang còn đẩy mạnh liên kết chuỗi, chứng nhận truy xuất nguồn gốc, nâng cấp bao bì và xúc tiến thương mại xuyên biên giới. Những nỗ lực này đang đưa nông sản Tuyên Quang từ thị trường nội địa vươn ra thế giới, hướng tới mục tiêu phát triển xanh, bền vững và nâng tầm giá trị đặc sản quê nhà.
Tuyên Quang là một trong những địa phương đã và đang đẩy mạnh xuất khẩu nông sản vùng đồng bào dân tộc và miền núi ra thế giới. Trên những triền đồi ngút ngàn của vùng cao Tây Bắc, từng gùi nông sản đang được bà con dân tộc thiểu số nâng niu, chăm chút. Giữa các bản làng xa xôi, những đặc sản vùng đồng bào dân tộc thiểu số như cà phê Tây Nguyên, chè Thái Nguyên, chanh leo Lâm Đồng, xoài Sơn La, thủ công mỹ nghệ Tây Bắc… đang vượt qua núi đồi, ra bến cảng, lên máy bay, vươn tới những thị trường khó tính nhất trên thế giới.

Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số, sinh sống chủ yếu ở miền núi, trung du - nơi hội tụ tiềm năng lớn về nông sản, lâm sản, dược liệu và thủ công mỹ nghệ. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, mỗi năm, khu vực này đóng góp hàng tỷ USD giá trị xuất khẩu, trong đó có nhiều sản phẩm đã xây dựng được thương hiệu trên trường quốc tế. Tuy nhiên, con đường đưa sản phẩm “made in bản làng” ra thế giới không hề bằng phẳng, từ khâu sản xuất, chế biến, đóng gói cho đến tiêu chuẩn chất lượng và xây dựng thương hiệu.
Những năm gần đây, nhờ chính sách hỗ trợ từ Nhà nước và sự đồng hành của doanh nghiệp, nhiều hợp tác xã vùng cao đã mạnh dạn đầu tư công nghệ chế biến, bảo quản, áp dụng quy trình sản xuất an toàn như VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ… Sản phẩm không chỉ giữ được hương vị nguyên bản mà còn đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Đông.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, 7 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam đạt 67,84 tỷ USD.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 39,6 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Việt Nam xuất siêu 11,52 tỷ USD nhóm này, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, một phần rất lớn trong kim ngạch thuộc về các các sản phẩm miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Ông Lê Thanh Hòa - Phó Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường - Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, vùng dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ ở các tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam mà còn có cả các tỉnh Đông Nam Bộ. Rất nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã tham gia vào sản xuất và xuất khẩu các loại nông sản thực phẩm, đặc biệt là các loại rau, hoa quả, mang lại giá trị rất cao.
“Ví dụ, các sản phẩm chè của Thái Nguyên, hoa quả Sơn La, cà phê Gia Lai, bơ Đắk Lắk, nông sản Lâm Đồng… đã xuất khẩu rất mạnh ra nước ngoài. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đã xây dựng rất nhiều chương trình để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản, rau, hoa quả từ nay đến năm 2030 cũng như các đề án xuất khẩu vào các thị trường lớn như Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ… và những thị trường mà chúng ta đã có các FTA để tận dụng lợi thế về thuế quan” - ông Lê Thanh Hoà nhấn mạnh.

Mặc dù tiềm năng lớn, xuất khẩu sản phẩm đồng bào dân tộc thiểu số vẫn đối mặt nhiều thách thức như sản xuất nhỏ lẻ, phân tán khó đảm bảo số lượng lớn và đồng nhất chất lượng. Doanh nghiệp khu vực đồng bào dân tộc thiểu số cũng thiếu kinh nghiệm thương mại quốc tế, hạn chế về giao tiếp cũng như tiếp cận các kênh phân phối toàn cầu. Chi phí logistics cao, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa là một trong những khó khăn rất lớn của sản phẩm.
Trong bối cảnh đó, các Bộ ngành, trong đó có Bộ Công Thương đã đẩy mạnh các giải pháp tăng cường xúc tiến tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia 20 FTA, trong đó có 16 FTA đã có hiệu lực và đang được thực thi. Với những cam kết giảm thuế mạnh, đây là cơ hội để hàng hoá Việt vươn mình ra thế giới, trong đó có không ít sản phẩm của bà con đồng bào dân tộc thiểu số.

Ông Trần Thanh Hải – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương chia sẻ, Bộ Công Thương đang tiếp tục thúc đẩy đàm phán các hiệp định thương mại tự do, luôn ưu tiên nhóm hàng nông sản miền núi nhằm mở rộng cơ hội đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế. Sau khi ký kết, công tác xúc tiến thương mại đóng vai trò then chốt, giúp các thị trường quốc tế biết đến, hiểu và làm quen với nông sản Việt. Đây là quá trình đòi hỏi nỗ lực lớn, cách làm tỉ mỉ, đặc biệt bởi yếu tố thói quen tiêu dùng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ.
“Với thị trường gần như Trung Quốc, thói quen tiêu dùng tương đồng tạo lợi thế cho các sản phẩm. Tuy nhiên, khi tiếp cận các thị trường xa như Nam Á, Trung Đông hay châu Âu, nông sản nhiệt đới của Việt Nam vẫn còn xa lạ với người tiêu dùng, cần chiến lược quảng bá phù hợp” – ông Trần Thanh Hải nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương tăng cường cung cấp thông tin qua doanh nghiệp và hợp tác xã miền núi, truyền đạt tới nông dân về nhu cầu, tiêu chuẩn của từng thị trường, từ đó định hướng sản xuất, nâng cao chất lượng và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Cùng với Bộ Công Thương, các Bộ ngành, địa phương cũng thúc đẩy mối liên kết giữa doanh nghiệp - HTX - nông dân, ứng dụng thương mại điện tử xuyên biên giới và đầu tư công nghệ chế biến sâu để gia tăng giá trị sản phẩm, tạo điều kiện cho sản phẩm vươn mình xuất khẩu ra nước ngoài. Đồng thời, tiếp tục đàm phán để có được các hiệp định mới để tạo điều kiện đưa sản phẩm ra thị trường.

Đặc biệt, trong bối cảnh thương mại điện tử đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, đây đã và đang trở thành một trong những kênh tiêu thụ đặc biệt của các sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Bộ Công Thương đã và đang phối hợp với các nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới như Alibaba, Amazon triển khai các giải pháp đưa hàng hoá Việt nói chung và các sản phẩm của vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi lên các nền tảng này để đẩy mạnh tiêu thụ ra nước ngoài.

Nhờ tận dụng tốt cơ hội từ các hiệp định song phương và đa phương, trong đó có Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA), nhiều loại trái cây đặc sản khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi như cam Cao Phong, quýt Cao Phong, bưởi đỏ Tân Lạc, bưởi Diễn và các đặc sản khác như mật ong, miến dong, tinh bột nghệ, chanh đào, trà giảo cổ lam… đã có mặt tại thị trường nước ngoài quốc thông qua các doanh nghiệp.
Theo Công ty cổ phần R.Y.B - doanh nghiệp chuyên xuất khẩu các sản phẩm nông sản miền núi ra thế giới, các sản phẩm nông nghiệp khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có tiềm năng xuất khẩu rất lớn, nhất là sản phẩm cây có múi như cam Cao Phong, bưởi Diễn, bưởi ruột đỏ.
Với phương châm, xuất khẩu không chỉ tạo ra nguồn tài chính ổn định, mà còn giúp nông dân thay đổi tư duy canh tác, từ bỏ tập quán lạc hậu, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông sản để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp đã đồng hành, gắn bó với người nông dân từ khâu giống, chăm sóc, bảo vệ thực vật đến thu hoạch, chế biến sản phẩm.
Năm 2025, doanh nghiệp xây dựng kế hoạch tiêu thụ hơn 500 tấn nông sản. Cùng với việc đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường truyền thống, Công ty R.Y.B sẽ mở rộng sang các thị trường mới như Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Lào và các quốc gia Hồi giáo.
Đó là với doanh nghiệp nhỏ, các doanh nghiệp lớn như Phúc Sinh, Trung Nguyên… đã và đang triển khai nhiều giải pháp nhằm đưa các sản phẩm thế mạnh như cà phê, tiêu ra nước ngoài.
Từ một vườn xoài nhỏ lẻ, nay nhiều hợp tác xã đã đẩy mạnh liên kết để xuất khẩu sang Hoa Kỳ, Trung Quốc, Úc… mỗi năm, mang về vài trăm triệu USD. Từ những ngọn núi ngút ngàn với những cây chè cổ thụ hàng trăm năm tuổi, từng túi chè Shan tuyết khô đã có mặt tại các cửa hàng cao cấp ở Tokyo. Cà phê Tây Nguyên cũng tự hào là một trong những sản phẩm được ưa chuộng bậc nhất thế giới với hệ thống phân phối rộng khắp. Đó là minh chứng rằng, khi sản xuất gắn với tiêu chuẩn quốc tế, sản phẩm của đồng bào dân tộc hoàn toàn có thể vươn ra biển lớn.
Từ những bàn tay chai sạn của bà con vùng cao, qua bàn tay chế biến, đóng gói hiện đại, sản phẩm đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đang trở thành sứ giả văn hóa, mang hương vị, bản sắc của núi rừng Việt Nam đến với bạn bè năm châu. Hành trình ấy cần thêm sự chung tay của Nhà nước, doanh nghiệp, hợp tác xã và mỗi người dân, để những sản phẩm “made in bản làng” không chỉ đứng vững ở thị trường trong nước mà còn khẳng định vị thế trên bản đồ xuất khẩu toàn cầu.