
Buổi sớm ở cao nguyên Tây Bắc thật diệu kỳ: ánh mặt trời còn chập chờn, sương sớm lay nhẹ trên những lá chè xanh mướt. Có nơi, đó là búp chè Shan tuyết mướt xanh vươn thẳng trên triền đồi. Có nơi khác, là vạt chè giữa bản làng xanh mơn mởn, nơi từng gia đình đồng bào các dân tộc cả đời mưu sinh với những đồi chè. Dù là sản phẩm nào thì với Sơn La, chè đã và đang là một trong những sản phẩm như hai nốt nhạc hài hoà trong bản giao hưởng của sinh kế và văn hoá nông thôn.
Sơn La với hơn 5.800 hecta chè đang cho thu hoạch, trong đó có vùng chè Shan tuyết hiếm hoi và những triền chè bản làng phân tán khắp vùng biên giới, các xã dân tộc thiểu số đang viết một câu chuyện về đổi thay: từ hoa thơm cỏ lạ hoá ngôi nhà ấm, từ tách trà nồng ấm đưa du khách đến bản làng, từ lời mời “ngồi uống trà” đến cả thương hiệu chè địa phương.

Ở cao nguyên Mộc Châu và vùng lân cận, chè Shan tuyết cổ thụ không phải là nông sản đại trà mà là di sản thiên nhiên ngay giữa lòng cộng đồng. Những cây chè Shan trên trăm năm tuổi, thân u trầm phủ rêu phong, lá dày và hương trà thơm đặc biệt - đậm, sâu, nhưng thanh, giữ được vị tầng tầng lớp lớp của núi non. Mỗi búp trà là kết tinh của khí hậu lạnh, sương mù như mây kéo ngang, đất đá giàu khoáng. Hái một chút búp đầu mùa, sao khô bằng tay, ướp trà theo kỹ thuật truyền thống, ấm trà vừa rót trong lòng bàn tay, bốc hơi nghi ngút, người thưởng thức cảm nhận ngay “hồn núi” quyện vào từng vị thơm ngát, hậu ngọt của chén trà.
Shan tuyết vốn là giống chè bản địa, ưu sinh từ cánh rừng cổ thụ, gắn chặt với đời sống người dân tộc thiểu số nơi đây. Những bản Mông, Thái ở vùng cao đã gắn đời mình với chè cổ thụ qua những câu chuyện truyền lại nhiều thế hệ: người xưa hái búp trà làm thuốc, bao trà mang vào lễ cưới, lên nương, xuống suối. Việc bảo tồn những vườn chè Shan không chỉ giữ lại gen thực vật hiếm, mà còn gìn giữ phong tục, nghi thức, chân dung văn hoá của cộng đồng.
Còn gì ấm lòng hơn khi du khách được mời một chén trà Shan giữa không gian cổ thụ, khi tiết trời se lạnh. Du khách được mặc trang phục dân tộc, nghe tiếng sáo, nhấp chén, mắt lơ đãng lắng nghe lời kể cổ tích của người bản. Đó là cảnh sắc, là văn hoá và sinh kế. Khi những búp chè cổ thụ được tôn trọng, có chỗ đứng trong du lịch cộng đồng, giữ được nguyên bản linh hồn của núi.

Để khai thác hiệu quả giá trị từ cây chè cổ thụ, các doanh nghiệp tại Sơn La đã và đang triển khai nhiều giải pháp để liên kết, tiêu thụ sản phẩm, tạo ra các sản phẩm có thương hiệu, có giá trị. Theo Công ty Trà và đặc sản Tây Bắc, qua khảo sát công ty nhận thấy Tà Xùa là một trong những địa danh có nguyên liệu trà Shan tuyết chất lượng. Vì vậy, công ty đã xây dựng cơ sở chế biến, sản xuất các sản phẩm chè tại xã Tà Xùa. Hiện các sản phẩm chế biến từ nguyên liệu búp trà Shan tuyết rất phong phú. Từ dòng trà xanh với vị truyền thống tới các sản phẩm thuộc nhóm trà lên men.
Trong số đó các loại trà lên men như trà bánh, trà hoa quả hay bạch trà đang là sản phẩm chủ lực của công ty, được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng. Do các loại trà này có thời hạn sử dụng kéo dài, càng để lâu thì chất lượng trà càng tăng lên. Hiện trung bình hàng năm công ty đã thu mua khoảng 50 tấn búp trà Shan tuyết tươi với giá bình quân là gần 80.000 đồng/kg.
Tại xã Chiềng Sơn, Công ty cổ phần Chè Chiềng Ve đã chủ động ứng trước phân bón cho người trồng chè; khuyến khích các hộ tận dụng các phụ phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi vào sản xuất, nhằm hạ giá thành. Cùng với đó, cử cán bộ kỹ thuật kiểm tra kiểm tra, giám sát, hướng dẫn và chuyển giao kỹ thuật để người trồng chè tăng năng suất, chất lượng, đảm bảo đời sống cho công nhân lao động và các hộ trồng chè.
Công ty hiện đang duy trì vùng nguyên liệu hơn 300 ha tại xã Chiềng Sơn với chủ yếu là giống chè Shan tuyết. Công ty luôn duy trì sản xuất và đảm bảo thu mua hết sản lượng chè của bà con với giá trung bình 6.000 đồng/kg. Trước đòi hỏi ngày càng cao của thị trường, Công ty đầu tư dây chuyền chế biến chè hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm chè, cải thiện điều kiện làm việc cho cán bộ, công nhân và tăng năng suất lao động. Chè búp tươi sau khi thu hái được vận chuyển ngay về nhà máy, chế biến trên dây chuyền hiện đại nên sản phẩm chè có chất lượng cao, chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Afghanistan, Pakistan, Nhật Bản, Hàn Quốc...

Nếu chè Shan tuyết là loại cây gắn với những câu chuyện cổ tĩnh lặng giữa mây núi, thì những đồi chè xanh ở các vùng biên và cấc xã dân tộc lại là dòng suối khát vọng hiện đại, sống động và hữu dụng, nơi bà con đặt hy vọng từng những tấc đất để có sinh kế. Những vạt chè xanh mơn mởn, được chăm tưới quanh năm, được hái, tuốt, chế biến cơ bản rồi mang ra chợ bản hoặc do Hợp tác xã bao tiêu, đã trở thành nguồn thu chính của nhiều gia đình.
Với Sơn La, mô hình liên kết “HTX - nông dân - doanh nghiệp” được xây dựng để đưa chè ra thị trường: HTX cung cấp kỹ thuật VietGAP, hướng dẫn sơ chế, hỗ trợ đóng gói, rồi tập kết sản phẩm cho doanh nghiệp hoặc nhà phân phối. Nhiều nông hộ có thu nhập ổn định, không chỉ trồng chè để đủ ăn, mà còn tích luỹ để cho con đến trường.

Nguồn thu từ chè đã giúp xoá đói giảm nghèo, giữ chân người trẻ lại với quê nhà. Thứ không kém phần quý giá là sự chuyển dịch tư duy: bao nhiêu giọt mồ hôi trên rẫy chè được nhìn thấy thành giá trị, được trả công xứng đáng. Vấn đề đầu ra cũng bớt hoang mang khi các doanh nghiệp, HTX đứng ra bao tiêu cho sản phẩm.
Đơn cử, Hợp tác xã sản xuất, kinh doanh chè Tân Lập, xã Tân Yên là một điển hình hiện đang liên kết với hơn 400 hộ trồng chè, canh tác trên diện tích 90 ha theo quy trình VietGAP. Trung bình mỗi năm, HTX đạt doanh thu trên 90 tỷ đồng, tạo việc làm ổn định cho hơn 60 lao động. Hiện HTX Tân Lập có hai sản phẩm chè đạt chuẩn OCOP 4 sao cấp tỉnh, trong đó chủ lực là chè Shan Tuyết và chè Bát Tiên đặc biệt, chủ yếu xuất khẩu sang các nước Trung Đông.
Bà Hoàng Thị Thúy - Giám đốc Hợp tác xã cho biết, thời gian tới, hợp tác xã dự kiến tiếp tục mở rộng vùng nguyên liệu với quy trình sản xuất VietGAP, hữu cơ. Hiện nay sản phẩm chè HTX được quảng bá và truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, facebook, tham gia các gian hàng, hội chợ. Đồng thời tiếp tục giữ vững thương hiệu các sản phẩm chè đạt OCOP và mở rộng thị trường tiêu thụ sang châu Á, châu Âu…

Câu chuyện về chè Sơn La không chỉ nằm ở số liệu diện tích hay sản lượng mà còn nằm ở cách sản phẩm được thổi hồn, tôn lên giá trị văn hoá và nâng lên tầm thương hiệu. Chè ở Sơn La không đơn thuần là sản phẩm nông nghiệp. Từ lâu, nó đã đan cài vào đời sống văn hoá bản địa. Những cây Shan tuyết cổ thụ hàng trăm năm tuổi, phủ đầy rêu phong và sương lạnh, là báu vật thiên nhiên của vùng núi. Mỗi búp chè ở đây là kết tinh của khí hậu, thổ nhưỡng và công sức con người, mang hương vị đặc trưng - đậm đà, thanh khiết và bền lâu.
Với đồng bào các dân tộc Thái, Mông, Dao, bát trà nóng không chỉ để thưởng thức mà còn là lời mời gọi kết nối, là nghi thức đón khách quý. Trong các dịp lễ tết, hội xuân, những ấm trà Shan tuyết, trà xanh Mộc Châu trở thành món quà biếu ý nghĩa.

Ngày nay, chè đã bước ra khỏi gian bếp để đến với du khách. Nhiều tour du lịch trải nghiệm tại Mộc Châu, Tà Xùa đưa du khách vào vườn chè, mặc trang phục truyền thống, tham gia hái trà, sao trà thủ công, rồi ngồi nhâm nhi chén trà nóng giữa cao nguyên. Hoạt động này không chỉ gia tăng thu nhập mà còn lan toả câu chuyện văn hoá đến bạn bè khắp nơi.
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp lớn như Vinatea Mộc Châu đầu tư vùng nguyên liệu lớn, dựng nhà máy chế biến, đóng gói thành sản phẩm tiêu chuẩn OCOP, thiết kế bao bì chuyên nghiệp, tiến tới xuất khẩu quốc tế… Đây là cánh cửa để chè Sơn La bước ra thị trường rộng lớn hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh tiềm năng, việc phát triển chè tại Sơn La còn đối diện với nhiều thách thức khi nhiều HTX nhỏ chưa đủ vốn, thiếu công nghệ chế biến sâu, bao bì chưa đủ đẹp. Sản phẩm chủ yếu vẫn là chè khô, chưa đa dạng hóa thành trà túi lọc, matcha, trà lạnh đóng chai - những sản phẩm hiện đại đang được thị trường ưa chuộng. Do đó, cần có chính sách hỗ trợ: ưu đãi vốn, kỹ thuật, đào tạo marketing, kết nối với sàn thương mại điện tử, hội chợ trong và ngoài nước.

Chè ở Sơn La không đơn thuần là sản phẩm của bà con mà là biểu tượng kết tinh của đất, người và văn hoá. Khi có bàn tay doanh nghiệp đến đầu tư phát triển, chè Sơn La không chỉ là cây xoá đói giảm nghèo, mà là thương hiệu vùng miền, là điểm đến văn hoá, là câu chuyện đáng kể cho bạn bè năm châu. Tỉnh Sơn La cũng đã và đang triển khai nhiều giải pháp để phát triển chè thành một sản phẩm đặc trưng, chủ lực của tỉnh để ngày càng nhiều người biết đến, mang lại giá trị kinh tế cao trong sản xuất. Đồng thời hỗ trợ phát triển du lịch trên địa bàn và hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững trong tương lai.