An Giang đề xuất mở rộng diện hỗ trợ vùng dân tộc thiểu số

Nâng tầm hạ tầng, cải thiện đời sống đồng bào dân tộc thiểu số

An Giang nằm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên gần 9.889 km² với 102 đơn vị hành chính cấp cơ sở. Theo tiêu chí phân định giai đoạn 2021-2025, tỉnh hiện có 65 xã, phường và 46 ấp, khu phố thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó 9 xã và 49 ấp được xếp vào diện đặc biệt khó khăn. Sau khi sắp xếp lại đơn vị hành chính, dự kiến tỉnh còn khoảng 43 đơn vị hành chính cấp xã, phường thuộc khu vực này.

Đồng bào dân tộc Chăm tại xã Châu Phong, tỉnh An Giang. Ảnh: Baoquocte.vn

Đồng bào dân tộc Chăm tại xã Châu Phong, tỉnh An Giang. Ảnh: Baoquocte.vn

Trên địa bàn An Giang, 29 dân tộc anh em cùng sinh sống. Đồng bào dân tộc thiểu số có hơn 472 nghìn người, chiếm 9,53% dân số, trong đó đông nhất là người Khmer (399 nghìn người, chiếm 8%), tiếp đến là người Hoa (46,5 nghìn người, chiếm 0,93%), người Chăm (21,6 nghìn người, chiếm 0,43%) và các dân tộc khác.

Những năm qua, Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã trở thành điểm tựa quan trọng, đáp ứng đúng nguyện vọng của người dân. Chương trình huy động sức mạnh tổng hợp từ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, sự đồng hành của các tổ chức, cá nhân và toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ đó, nhiều mô hình sản xuất mới được triển khai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đời sống người dân được cải thiện rõ rệt.

Đến nay, hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã đồng bộ hơn: 100% xã có đường ô tô đến trung tâm, 90% ấp đặc biệt khó khăn có đường cứng hóa; điện lưới quốc gia, hệ thống thủy lợi, viễn thông đều đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. 100% xã có trường học, trạm y tế; tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch đạt 89,3%, hộ có điện đạt 99,6%. Những kết quả này không chỉ thay đổi diện mạo nông thôn, nâng cao đời sống nhân dân mà còn củng cố niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển bền vững vùng đất giàu bản sắc này.

Kết quả có được trong triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn I (2021 – 2025) đến từ 3 yếu tố. Một là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và quán triệt sâu rộng nội dung Chương trình trong toàn hệ thống chính trị các cấp. Hai là, phân công rõ nhiệm vụ, gắn trách nhiệm với công tác kiểm tra, đôn đốc. Ba là, quản lý Chương trình đúng quy định, duy trì cơ chế điều hành linh hoạt và kịp thời.

Là chương trình đầu tiên dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số, quá trình triển khai đã trở thành cầu nối gắn kết ý Đảng với lòng dân, tạo sự đồng thuận cao trong toàn hệ thống chính trị. Đồng bào các dân tộc thiểu số ngày càng tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Những kết quả đạt được không chỉ cải thiện đời sống kinh tế – xã hội, mà còn góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững an ninh quốc phòng, nhất là tại các địa bàn trọng yếu và tuyến biên giới.

Đề xuất mở rộng đối tượng, tăng phân quyền cho cơ sở

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025 đã mang lại nhiều kết quả tích cực, song thực tiễn cho thấy khu vực này vẫn đối mặt với không ít khó khăn, thách thức.

Theo đó, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn cao, thu nhập bình quân đầu người còn thấp, có nguy cơ tái nghèo. Khoảng cách phát triển giữa các vùng dân tộc, địa phương còn lớn, dễ nảy sinh bất bình đẳng trong xã hội xã hội.

Với yêu cầu tiếp tục thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc, như: Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị khóa XII; Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ về chiến lược công tác dân tộc; Chỉ thị số 19-CT/TW ngày 10/01/2018 của Ban Bí thư (khóa XII) về tăng cường công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer… Cùng với nhiệm vụ ổn định chính trị, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và bảo vệ chủ quyền quốc gia tại các khu vực trọng yếu, đặc biệt là vùng biên giới, hải đảo có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.

Do đó, việc xây dựng và triển khai Chương trình giai đoạn II (2026 – 2030) là cần thiết và cấp bách, nhằm tiếp nối thành quả giai đoạn trước, khắc phục hạn chế, tạo bước chuyển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển và nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số.

Chương trình giai đoạn II được xây dựng trên cơ sở kế thừa các nội dung của Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021, Quyết định số 920/QĐ-TTg ngày 14/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 05/2025/TT-UBDT ngày 24/6/2025 của Bộ Dân tộc và Tôn giáo. Đây là những văn bản đã được Trung ương tổng hợp, sửa đổi, bổ sung từ ý kiến các bộ, ngành và địa phương, bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn giai đoạn mới.

Để chương trình triển khai được hiểu quả hơn nữa, đại diện UBND tỉnh An Giang cũng kiến nghị Trung ương cơ cấu lại các dự án theo hướng tích hợp những nhiệm vụ, mục tiêu tương đồng thành các nhóm nội dung lớn. Cách làm này, theo tỉnh, sẽ giúp thống nhất hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho địa phương trong phân công, phân cấp và quản lý.

Bên cạnh đó, địa phương cũng đề xuất mở rộng đối tượng thụ hưởng chính sách, không chỉ giới hạn ở các xã, thôn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi, mà còn bao gồm hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở những khu vực khác theo danh sách được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Về định hướng đầu tư, tỉnh mong muốn ưu tiên nguồn lực cho các dự án hạ tầng và tạo sinh kế, gắn với điều kiện đặc thù của từng dân tộc và từng địa phương. Mục tiêu là vừa phát triển kinh tế – xã hội, vừa giữ gìn bản sắc văn hóa và nâng cao đời sống người dân.

Trong tổ chức thực hiện, An Giang đề nghị tiếp tục duy trì mô hình chỉ đạo như hiện nay, nhưng tăng cường trao quyền cho cơ sở làm chủ đầu tư, bám sát địa bàn. Cấp tỉnh sẽ tập trung vào công tác kiểm tra, giám sát và hướng dẫn. Đồng thời, cần rà soát để tránh trùng lặp giữa các chương trình, chính sách; tăng cường phân cấp, giao quyền cho cấp xã lập và triển khai dự án, tiểu dự án, với sự tham gia trực tiếp của cộng đồng dân tộc thiểu số, nhằm phát huy lợi thế từng vùng, từng địa bàn và đầu tư có trọng tâm, trọng điểm.

Tỉnh An Giang sáp nhập với tỉnh Kiên Giang và tên gọi mới sau sáp nhập là tỉnh An Giang. Nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2021-2025 của An Giang và Kiên Giang là hơn 952 tỷ đồng, trong đó An Giang (trước khi sáp nhập) được phân bổ hơn 323 tỷ đồng. Tỉnh cũng chủ động bố trí vốn đối ứng 15% và phân bổ đến từng dự án, tiểu dự án cụ thể.

An Giang đề xuất mở rộng diện hỗ trợ, ưu tiên đầu tư hạ tầng và tạo sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời tăng phân cấp, trao quyền cho cơ sở.
Nguyễn Hạnh
Bình luận

Tin cùng chuyên mục