Bảo tồn di sản văn hoá: Tạo đà phát triển du lịch, kinh tế vùng cao

Thúc đẩy gìn giữ, bảo tồn kho tàng di sản văn hóa chính là ‘chìa khoá’ để phát triển du lịch, tạo sinh kế bền vững cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Bảo Thoa

Kho tàng tiềm năng văn hóa giàu bản sắc

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của du lịch Việt Nam, du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi những năm gần đây đang từng bước khởi sắc. Hạ tầng du lịch được đầu tư, các sản phẩm chất lượng cao được đưa vào khai thác, dịch vụ ngày càng cải thiện. góp phần thay đổi diện mạo và nâng cao đời sống người dân vùng cao.

Để có bước phát triển tích cực đó, yếu tố cảnh quan, khí hậu, môi trường chỉ là một phần, điều làm nên sức hút đặc biệt của du lịch vùng dân tộc thiểu số chính là nền văn hóa đa dạng và đậm đà bản sắc. Du khách không chỉ đến để ngắm cảnh hay thưởng thức ẩm thực mà còn để hòa mình vào đời sống văn hóa của các cộng đồng, lắng nghe tiếng khèn, tiếng chiêng, tham dự lễ hội, tìm hiểu tri thức bản địa, nghề thủ công truyền thống…

Kho tàng văn hoá đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh minh họa

Kho tàng văn hoá đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh minh họa

Trong số các di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam được UNESCO ghi danh, có nhiều di sản gắn liền với các cộng đồng dân tộc thiểu số như Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Nghệ thuật Xòe Thái, Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái, hay gần đây là Nghệ thuật làm gốm truyền thống của người Chăm.

Trước kho tàng di sản văn hoa của vùng dân tộc thiểu số, trong định hướng phát triển của ngành du lịch, du lịch di sản văn hóa được xác định là một trong những dòng sản phẩm chủ đạo, đồng thời là yếu tố cốt lõi tạo nên thương hiệu du lịch Việt Nam. Nhờ đó, từ năm 2019 đến nay, Việt Nam nhiều lần được Tổ chức Giải thưởng Du lịch Thế giới (World Travel Awards – WTA) vinh danh là “Điểm đến Di sản hàng đầu thế giới”, khẳng định sức hấp dẫn toàn cầu của kho tàng di sản phong phú mà 54 dân tộc anh em cùng góp sức bồi đắp.

Khách du lịch với vùng dân tộc thiểu số ngày nay không chỉ là hành trình khám phá, mà còn là cơ hội để du khách trải nghiệm văn hóa sống động, từ canh tác ruộng bậc thang ở Mù Cang Chải, Hoàng Su Phì, đến dệt thổ cẩm của người Mông, Dao, Tày, Thái, hay chế biến ẩm thực đặc trưng của từng vùng. Qua đó, chính du khách trở thành cầu nối tiêu thụ sản phẩm địa phương, mang lại giá trị kinh tế thiết thực cho cộng đồng.

Tạo động lực phát triển du lịch, kinh tế bền vững

Tuy nhiên, trong dòng chảy hiện đại hóa, nguy cơ mai một các giá trị văn hóa luôn hiện hữu. Đây cũng là một thách thức đặt ra đối với sự phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Vì vậy, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa vùng dân tộc thiểu số không chỉ là nhiệm vụ cấp thiết cần sự chung tay của cả cộng đồng.

Góp phần vào công cuộc bảo tồn văn hoá của đồng bào dân tộc thiểu số, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được xem là một điểm sáng. Ngay giữa lòng Thủ đô, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam vốn là nơi lưu giữ và phục dựng nhiều biểu tượng văn hóa tiêu biểu của các tộc người, trong đó có nhà rông Tây Nguyên, biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tinh thần đoàn kết.

Trải qua thời gian, vật liệu truyền thống khan hiếm, nhà rông dần bị thay thế bởi công trình hiện đại. Bởi vậy, việc bảo tồn nhà rông trong không gian bảo tàng không chỉ mang ý nghĩa trưng bày mà còn là cách giữ hồn văn hóa một cách sống động và đầy ý nghĩa.

Văn hóa chính là nguồn lực phát triển du lịch, kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh minh họa

Văn hóa chính là nguồn lực phát triển du lịch, kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh minh họa

Theo TS. Bùi Ngọc Quang, Phó Giám đốc phụ trách Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, bảo tàng gìn giữ nhà rông bằng nhiều cách, trong đó quan trọng nhất là trao lại quyền chăm sóc và tu sửa cho chính những người Ba Na làng Kon Rbàng, tỉnh Quảng Ngãi. Trong đó, điều ý nghĩa nhất chính là mỗi lần trùng tu nhà rông là một dịp quý để thế hệ trẻ học lại kỹ thuật, nghi lễ, phong tục gắn liền với ngôi nhà truyền thống của mình.

Những hoạt động phục dựng, trùng tu các biểu tượng văn hoá của đồng bào ngay tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cho thấy sự chung tay giữa nhà nghiên cứu, nghệ nhân và cơ quan quản lý văn hóa trong việc bảo tồn “hồn cốt” di sản giữa nhịp sống hiện đại, đồng thời tạo nên không gian giáo dục sinh động cho du khách, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đặc biệt, chính bảo tàng đã tạo nhịp cầu để du khách đến, trải nghiệm văn hoá ngay chính tại địa phương.

Nhận thức được tầm quan trọng của di sản văn hoá trong phát triển du lịch, kinh tế, thời gian qua tại tỉnh Lào Cai công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản vùng dân tộc thiểu số cũng được triển khai đồng bộ. Với hơn 66% dân số là người dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào người Mông, Tày, Giáy, Hà Nhì…, Lào Cai sở hữu kho tàng di sản văn hóa đặc sắc, là “nguồn tài nguyên mềm” để phát triển du lịch đặc thù.

Đặc biệt, gần đây tỉnh Lào Cai đã phục dựng nhiều lễ hội truyền thống, khôi phục nghề thủ công và kết hợp với các sản phẩm du lịch đặc trưng, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Các lễ hội bốn mùa của Lào Cai không chỉ thu hút hàng chục nghìn lượt khách mà còn giúp quảng bá bản sắc văn hóa vùng cao tới bạn bè quốc tế. Từ những bản làng mờ sương, du lịch cộng đồng đã mở ra cơ hội đổi đời cho người dân, đưa văn hóa trở thành nguồn thu nhập và niềm tự hào.

Gắn bó với du lịch cộng đồng, ông Phạm Hải Quỳnh - Viện trưởng Viện Phát triển du lịch châu Á cho rằng, văn hóa chính là “chìa khóa” phát triển du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, muốn phát triển bền vững, mỗi địa phương phải chọn được giá trị văn hóa đặc trưng của mình, gắn bảo tồn với du lịch, đồng thời đầu tư nhân lực và hạ tầng để tạo sản phẩm hấp dẫn, mang dấu ấn riêng

Dù còn nhiều khó khănm thách thức, tuy nhiên kỳ vọng rằng, công tác bảo tồn, gin giữ, phát huy giá trị di sản văn hoá vùng dân tộc thiểu số sẽ tiếp tục được đẩy mạnh. Và vảo tồn văn hoá cần được xem không còn là công việc riêng của ngành văn hóa, mà đã trở thành động lực phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số.

Khi mỗi bản làng trở thành điểm đến, mỗi phong tục trở thành câu chuyện kể, và mỗi sản phẩm thủ công trở thành hàng hóa du lịch, di sản văn hóa sẽ thực sự “sống”, mang lại sinh kế cho người dân, đồng thời góp phần khẳng định bản sắc dân tộc Việt Nam trên bản đồ du lịch thế giới.

Trong Chiến lược Phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2030 cũng đã xác định rõ phát triển du lịch văn hóa phải gắn liền với bảo tồn di sản và bản sắc dân tộc, khai thác thế mạnh ẩm thực, lễ hội, nghề truyền thống để hình thành sản phẩm du lịch độc đáo, mang thương hiệu Việt Nam. 

Bình luận

Tin cùng chuyên mục

Giữ gìn nghề dệt thổ cẩm để bảo tồn văn hoá

Giữ gìn nghề dệt thổ cẩm để bảo tồn văn hoá

Người Bh’noong sinh sống trong huyện Phước Sơn (Quảng Nam), có nghề dệt thổ cẩm truyền thống lâu đời, được lưu truyền từ đời này qua đời khác và tồn tại cho đến ngày nay. Dệt thổ cẩm có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế cũng như đời sống văn hóa người Bh’noong.