Khai thác tiềm năng lòng hồ, đồng bào dân tộc vững bước thoát nghèo

Lòng hồ thủy điện Sơn La trở thành bệ đỡ giúp đồng bào dân tộc nơi đây đổi thay sinh kế, kiến tạo tương lai thoát nghèo ổn định và bền vững.
Ngân Thương

Lồng cá nuôi hy vọng

Vùng lòng hồ thủy điện Sơn La không chỉ là công trình trọng điểm về năng lượng của quốc gia, mà còn dần trở thành chiếc nôi sinh kế mới cho hàng nghìn hộ dân là đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống ven hồ. Nếu trước kia, cuộc sống của đồng bào gắn với nương rẫy, với nghề đánh bắt tự nhiên đầy bấp bênh, thì nay mặt nước mênh mang đã mở ra một chân trời kinh tế mới. Những xã như Mường Khiêng, Mường Sại (tỉnh Sơn La) đang từng ngày biến diện tích mặt nước rộng lớn thành không gian phát triển kinh tế đa dạng, từ nuôi cá lồng, trồng rau thủy canh cho đến phát triển du lịch cộng đồng. Mỗi con sóng vỗ, mỗi đàn cá tung mình dưới lòng hồ đã trở thành minh chứng sống động cho sự đổi thay mạnh mẽ nơi miền sơn cước này.

Các lồng bè nuôi cá trên lòng hồ thủy điện Sơn La. Ảnh: Trường Sơn

Các lồng bè nuôi cá trên lòng hồ thủy điện Sơn La. Ảnh: Trường Sơn

Tại xã Mường Khiêng có hơn 1.000 ha mặt nước lòng hồ trong xanh, nguồn nước sạch, ổn định, là điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản. Nếu như trước kia, phần lớn bà con chỉ quen với nghề đánh bắt tự nhiên, sản lượng thấp và thu nhập bấp bênh, thì nay, nhờ sự định hướng đúng đắn của Đảng ủy, HĐND, UBND xã, nghề nuôi cá lồng đã trở thành hướng đi mới đầy triển vọng. Từ 50 lồng cá năm 2015, đến nay nhân dân đã phát triển lên hơn 670 lồng, sản lượng đạt khoảng 500 tấn cá mỗi năm. Các giống cá như trắm, lăng, nheo được lựa chọn nhờ phù hợp với điều kiện tự nhiên, vừa tận dụng được nguồn thức ăn phong phú, vừa đảm bảo an toàn thực phẩm. Bình quân mỗi lồng rộng 36 m2, sản lượng 10 tấn cá/năm, mang lại lợi nhuận 35 - 40 triệu đồng cho các hộ dân.

Cảnh sắc vùng hồ càng thêm sinh động khi đến bản Ban Xa, nơi có số lượng lồng cá nhiều nhất xã. Từng bè cá nối nhau nổi trên mặt nước như những dãy nhà nổi. Ông Quàng Văn Tưởng, một trong những hộ tiên phong, vừa tung cám xuống hồ vừa nở nụ cười mãn nguyện. Đàn cá khỏe mạnh đớp mồi, tạo nên khung cảnh rộn rã giữa non nước bao la. Ông kể, từ năm 2014, sau khi được xã tuyên truyền và hỗ trợ, ông đã mạnh dạn đầu tư 10 lồng cá, chủ yếu nuôi cá lăng, chép, nheo, trắm. Giờ đây, số lượng lồng cá đã tăng lên 21, mang lại thu nhập 400 triệu đồng mỗi năm. So với nghề đánh bắt tự nhiên, nuôi cá lồng mang lại hiệu quả kinh tế vượt trội, giúp gia đình ông thoát nghèo, có điều kiện cho con cái ăn học đầy đủ.

Người dân thu hoạch cá tại các lồng bè trên lòng hồ Thủy điện Sơn La. Ảnh: Trường Sơn

Người dân thu hoạch cá tại các lồng bè trên lòng hồ Thủy điện Sơn La. Ảnh: Trường Sơn

Từ hiệu quả của ông Tưởng, nhiều hộ dân khác ở Ban Xa cũng mạnh dạn đầu tư nuôi cá. Nhóm nuôi trồng thủy sản Liệp Tè với 14 thành viên đã phát triển 248 lồng cá. Các thành viên thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ kỹ thuật, cùng nhau giải quyết khó khăn trong quá trình sản xuất. Nhờ tinh thần hợp tác ấy, mô hình nuôi cá lồng ở Mường Khiêng không chỉ dừng lại ở một vài hộ mà đã trở thành phong trào lan rộng. Anh Quàng Văn Thiên, một thành viên trong nhóm, cho biết sau khi học hỏi kinh nghiệm, anh đã đầu tư 8 lồng cá, chỉ sau hơn một năm đã xuất bán 2 lứa, thu về trên 100 triệu đồng. Bên cạnh đó, anh còn trồng ngô, sắn làm thức ăn bổ sung cho cá, giúp giảm chi phí và tăng lợi nhuận.

Không dừng ở cá lồng, Mường Khiêng còn mạnh dạn thử nghiệm các mô hình mới. Một số hộ đã nuôi lươn không bùn trong môi trường nước hồ, bước đầu cho kết quả khả quan, lươn sinh trưởng nhanh, ít bệnh, sản phẩm sạch hơn so với nuôi trong bể xi măng. Một số hộ khác phát triển nuôi ếch thương phẩm và trồng rau sạch trên bè nổi. Mô hình rau thủy canh không chỉ giúp tận dụng mặt nước mà còn tạo nguồn rau an toàn, cung cấp miễn phí cho người dân, mở ra hướng đi nhân văn và bền vững. Những bước đi sáng tạo này cho thấy tư duy sản xuất ở Mường Khiêng đang chuyển mình mạnh mẽ, không chỉ dựa vào một nguồn thu mà hướng tới đa dạng hóa sinh kế.

Bà Phạm Thị Thanh Hường, Trưởng phòng kinh tế UBND xã Mường Khiêng, chia sẻ rằng chính sự đồng lòng của người dân cộng với định hướng đúng đắn đã giúp Mường Khiêng khẳng định vị thế. Các mô hình kinh tế lòng hồ đang trở thành động lực phát triển, góp phần nâng cao thu nhập, tạo thương hiệu sản phẩm đặc trưng cho địa phương.

Người dân bán cá tươi đánh bắt từ lòng hồ thủy điện. Ảnh: Trường Sơn

Người dân bán cá tươi đánh bắt từ lòng hồ thủy điện. Ảnh: Trường Sơn

Không gian phát triển kinh tế cho hàng nghìn hộ dân

Nếu Mường Khiêng khẳng định mình bằng những lồng cá nối dài trên mặt hồ, thì Mường Sại, xã mới được hình thành sau sáp nhập Mường Sại và Nậm Ét lại là hình mẫu cho sự chuyển mình toàn diện. Với 18 bản, hơn 2.000 hộ dân gồm các dân tộc Thái, La Ha, Mông, Dao, xã Mường Sại hội tụ sự đa dạng về văn hóa và tiềm năng kinh tế. Giai đoạn 2020 - 2025, xã đã được đầu tư hơn 600 tỷ đồng cho kết cấu hạ tầng và hỗ trợ sản xuất. Nhờ vậy, bộ mặt nông thôn ngày càng khang trang, kinh tế phát triển bền vững hơn.

Ông Lò Văn Tâm, Chủ tịch UBND xã Mường Sại, cho biết xã tập trung vào xây dựng mô hình kinh tế phù hợp, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận vốn vay ưu đãi, đồng thời chú trọng đào tạo nghề để nâng cao tay nghề cho lao động nông thôn. Kết quả cho thấy rõ rệt, năm 2024, thu nhập bình quân đầu người đạt 45 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn hơn 5%. Đây là bước tiến quan trọng đối với một xã tái định cư vùng lòng hồ.

Không nằm ngoài xu thế chung, Mường Sại tận dụng lợi thế lòng hồ thủy điện Sơn La để phát triển thủy sản. Hiện xã có 2.698 lồng cá, sản lượng hằng năm đạt hơn 366 tấn. Hợp tác xã Ngọc Hùng ở Bản Ít, được thành lập năm 2017 với 14 thành viên, là mô hình tiêu biểu. Các thành viên nuôi 162 lồng cá theo tiêu chuẩn VietGAP, vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm, vừa nâng cao uy tín thương hiệu. Thu nhập bình quân đạt 5 triệu đồng/người/tháng, con số không nhỏ đối với vùng nông thôn miền núi.

Không chỉ dừng lại ở hiện tại, Mường Sại đã đặt mục tiêu đến năm 2030 thu nhập bình quân đạt 49 triệu đồng/người/năm, không còn hộ nghèo, sản lượng thủy sản đạt 12.000 tấn. Xã hướng đến việc giữ vững và nâng cao các tiêu chí nông thôn mới, xây dựng ít nhất 2 bản đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Song song với thủy sản, địa phương còn chú trọng phát triển du lịch cộng đồng, khai thác bản sắc văn hóa các dân tộc, tận dụng cảnh quan thiên nhiên nên thơ của vùng hồ để thu hút du khách. Nhờ vậy, bức tranh phát triển kinh tế - xã hội của Mường Sại ngày càng nhiều gam màu sáng.

Lòng hồ thủy điện Sơn La, vì thế, ngày càng chứng minh giá trị vượt ra ngoài vai trò cung cấp điện. Nó trở thành không gian sống, không gian phát triển kinh tế cho hàng nghìn hộ dân. Mỗi lồng cá, mỗi bè rau, mỗi chuyến thuyền chở khách du lịch đều mang ý nghĩa của sự đổi thay. Người dân tin tưởng rằng, cùng với thời tiết thuận lợi và sự hỗ trợ từ chính quyền, các hoạt động kinh tế - du lịch trên lòng hồ sẽ ngày càng sôi động, tạo đà tăng trưởng mới cho vùng đất này.

Có thể nói, từ Mường Khiêng đến Mường Sại, từ những lồng cá đơn lẻ đến những hợp tác xã bài bản, vùng lòng hồ Sơn La đã và đang viết tiếp câu chuyện vươn lên đầy ấn tượng. Không chỉ mang lại nguồn thu nhập ổn định, các mô hình kinh tế trên mặt nước còn góp phần gắn kết cộng đồng, gìn giữ văn hóa, bảo vệ môi trường sinh thái. Đó là hành trình mà mỗi giọt nước, mỗi con cá, mỗi bàn tay cần cù đều góp phần làm nên sự đổi thay bền vững.

 

Bình luận

Tin cùng chuyên mục