
Chuyển hướng chính sách giảm nghèo: Từ trợ cấp sang tạo sinh kế
Kinh tế nông thôn và miền núi08:27 | 30/08/2025
Trao quyền người dân, vượt rào cản vùng khó
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, theo chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ, cách tiếp cận mới lấy “con người làm trung tâm”, giúp người nghèo tự đứng vững, chủ động phát triển và thoát nghèo bền vững.

Kết nối thị trường và tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm địa phương vẫn là khâu yếu nhất trong công tác giảm nghèo. Ảnh: N.H
“Thay vì người dân chỉ nhận trợ cấp, giờ đây chính sách hướng tới trao quyền, trang bị kiến thức kinh doanh, tư duy sáng tạo và khả năng khai thác tiềm năng hiện tại lẫn tiềm năng tương lai. Đây là bước quan trọng trong cải cách thể chế: Chính phủ kiến tạo, chính quyền địa phương triển khai, còn người dân là chủ thể phát triển”, ông Hoàng Trọng Thủy nhấn mạnh.
Tuy vậy, quá trình triển khai Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 không tránh khỏi những khó khăn. Thực tế cho thấy, nguồn lực ban đầu lớn là một thách thức: để tạo sinh kế cần vốn, đào tạo, hạ tầng và kết nối thị trường. Đồng thời, khả năng thích ứng của người dân cũng hạn chế, không phải ai cũng sẵn sàng tham gia mô hình mới, còn thiếu kỹ năng sản xuất, quản lý tài chính và kinh doanh.
Một rào cản đáng kể là tính liên kết. Nếu không có kết nối chặt chẽ giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và chính quyền, sinh kế dễ manh mún, thiếu bền vững. Hệ thống giám sát, đánh giá chính sách còn chưa đồng bộ, dẫn tới nguy cơ hình thức, thiếu hiệu quả thực chất.
Theo ông Thủy, rào cản có thể chia thành bốn nhóm. Thứ nhất, về nguồn lực, người nghèo khó tiếp cận tín dụng ngân hàng; vốn hỗ trợ nhỏ giọt, chưa đủ để hình thành mô hình kinh tế. Về kiến thức, kỹ năng, nhiều hộ chưa quen với kỹ thuật sản xuất mới, quản lý tài chính, kinh doanh; ít cơ hội được đào tạo nghề.
Thứ hai, rào cản về thị trường và liên kết. Theo đó, đầu ra bấp bênh, nông sản làm ra khó tiêu thụ, dễ rơi vào cảnh ế thừa bị ép giá và không đủ sản phẩm để kết nối với doanh nghiệp, thương lái và các kênh bán hàng.
Thứ ba, rào cản về văn hóa – xã hội. Theo đó, tâm lý trông chờ, ỷ lại, một bộ phận người nghèo quen với trợ cấp, chưa mạnh dạn tự chủ.
Thứ tư, rào cản về hạ tầng và điều kiện tự nhiên. Khi đường sá, điện, nước, internet chưa thuận lợi, sẽ làm tăng chi phí sản xuất, vận chuyển, nông sản miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số không đủ sức cạnh tranh với các địa phương ven đô thị, khu công nghiệp.
Thách thức trong kết nối thị trường nông sản
Hiện kết nối thị trường và tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm địa phương vẫn là khâu yếu nhất trong công tác giảm nghèo. Nông dân nghèo thường sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, sản lượng thấp, khó gom hàng và đảm bảo chất lượng đồng đều. Thiếu thông tin thị trường và dự báo khiến người dân e ngại đầu tư và mở rộng sản xuất.

Ông Hoàng Trọng Thủy, chuyên gia nông nghiệp. Ảnh: Phạm Hùng
Liên kết chuỗi giá trị còn lỏng lẻo; nhiều nơi chỉ giao dịch tự phát, chưa có hợp đồng dài hạn. Doanh nghiệp ít mặn mà đầu tư vào vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vì hạ tầng kém, chi phí cao và rủi ro lớn. Hoạt động xúc tiến thương mại còn manh mún; nhiều nông dân và hợp tác xã chưa quen bán hàng qua sàn thương mại điện tử, thiếu kỹ năng tiếp cận khách hàng trực tuyến.
Để giảm nghèo đa chiều đạt được mục tiêu đặt ra, ông Thủy khuyến nghị, chúng ta phải đi từ năm trụ cột: tổ chức sản xuất; vốn và công nghệ; liên kết thị trường; thương hiệu và chính sách bảo trợ. Khi đủ các yếu tố này, người dân mới có thể tham gia thị trường hiện đại và nâng cao thu nhập.
Cụ thể, thứ nhất, nâng cao năng lực và tổ chức sản xuất bằng đào tạo, tập cán bộ xã về kiến thức, kỹ năng để thực thi giảm nghèo bền vững không chỉ về kỹ thuật canh tác mà cả quản trị tài chính, tiếp thị, thương mại điện tử. Phát triển HTX và tổ nhóm sản xuất giúp nông dân liên kết, gom sản lượng, chuẩn hóa quy trình, dễ thương thảo với doanh nghiệp.
Thứ hai, hỗ trợ vốn, tín dụng và công nghệ, cho hộ nghèo tham gia sản xuất theo hợp đồng, đảm bảo vốn đầu vào. Ứng dụng công nghệ số trong truy xuất nguồn gốc, quản lý sản xuất để nâng chuẩn chất lượng. Hỗ trợ đầu tư sơ chế, bảo quản, kho lạnh ngay tại địa phương, giảm thất thoát sau thu hoạch.
Thứ ba, liên kết thị trường và doanh nghiệp. Xây dựng mô hình “doanh nghiệp – HTX – nông dân”; trong đó, doanh nghiệp đặt hàng, cung ứng giống – vật tư, bao tiêu sản phẩm; HTX tổ chức sản xuất; nông dân trực tiếp tham gia.
Thứ tư, xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại. Hỗ trợ đăng ký chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể, phát triển thương hiệu nông sản vùng nghèo.
Thứ năm, thể chế và chính sách đồng hành: lồng ghép chương trình giảm nghèo với chương trình xây dựng nông thôn mới, OCOP, chuyển đổi số nông nghiệp.
Sự chuyển hướng từ trợ cấp trực tiếp sang tạo sinh kế bền vững đánh dấu bước tiến quan trọng trong chính sách giảm nghèo. Tuy còn nhiều thách thức về nguồn lực, kỹ năng, liên kết thị trường và hạ tầng, việc tổ chức sản xuất, kết nối thị trường, xây dựng thương hiệu và đồng hành chính sách sẽ mở ra cơ hội nâng cao thu nhập, tạo sinh kế bền vững cho người dân nông thôn, miền núi, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số.
Tin cùng chuyên mục


Giảm nghèo bền vững: Chính sách hiếm có và câu chuyện từ Bắc Ninh

Giảm nghèo bền vững – hành trình kiến tạo nông thôn hạnh phúc
Đọc nhiều

Nông dân vùng cao năng động, viết tiếp câu chuyện thoát nghèo

Longform | ‘Khơi thông’ dòng chảy nông sản miền núi bằng xúc tiến thương mại: Bài 1

Hồng vành khuyên mở lối thoát nghèo cho nông dân vùng cao Lạng Sơn

Khai thác tiềm năng lòng hồ, đồng bào dân tộc vững bước thoát nghèo
