
Đào tạo nghề để ứng phó thách thức giảm nghèo do biến đổi khí hậu
Cơ chế - Chính sách07:26 | 23/09/2025
Biến đổi khí hậu và vòng luẩn quẩn nghèo bền vững
Biến đổi khí hậu đang đặt người nghèo, đặc biệt là nông dân, vào tình thế ngày càng khó khăn, khi vòng luẩn quẩn nghèo bền vững trở nên khó phá vỡ. Chia sẻ về thực trạng này, ông Hoàng Trọng Thủy, chuyên gia nông nghiệp, ví von: người nông dân đối diện với biến đổi khí hậu giống như một người leo núi nhưng không có giày dép – nhiều trở ngại đang chờ đợi. Trong số những khó khăn đó, ba vấn đề nổi bật nhất là: thiếu nguồn lực, thiếu công cụ sản xuất phù hợp và yếu tố khách quan không thể kiểm soát.

Người nghèo đang đối diện với thách thức rất lớn từ biến đổi khí hậu
Thứ nhất, thiếu nguồn lực là rào cản lớn nhất. Nông dân nghèo thường thiếu vốn tự có, khả năng tiếp cận các khoản vay từ tổ chức tín dụng hạn chế, hoặc nếu có, mức vay rất thấp. Điều này khiến họ gặp khó khăn ngay từ khâu đầu tư: phân bón, giống cây trồng, thức ăn chăn nuôi hay thuê nhân công thu hoạch. Khi vốn không đủ, sản xuất bị hạn chế, năng suất thấp, thu nhập không cải thiện – tạo ra một vòng luẩn quẩn khó thoát. Nhiều gia đình vay mượn để nuôi trồng, chỉ sau một trận lũ hoặc đợt hạn hán, vốn đầu tư “bốc hơi” chỉ sau vài giờ, kéo họ quay về vạch xuất phát.
Thứ hai, thiếu công cụ và tư liệu sản xuất phù hợp cũng khiến người nghèo gặp nhiều hạn chế. Phần lớn nông dân vẫn sử dụng công cụ thô sơ, kỹ thuật lạc hậu, trong khi phải cạnh tranh với những hộ có điều kiện tốt hơn. Sản phẩm của họ chỉ bán được ở phân khúc giá rẻ, không đủ thu nhập để tái đầu tư, khó nâng cao chất lượng hay mở rộng quy mô sản xuất.
Thứ ba, yếu tố khách quan, gồm thiên tai, điều kiện tự nhiên và biến đổi khí hậu, càng làm tình hình thêm bi đát. Những trận bão, lũ lụt, hạn hán hay xâm nhập mặn xảy ra bất ngờ có thể phá hủy mùa màng, vật nuôi và công sức của người dân trong chớp mắt. Thống kê từ Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho thấy, trong giai đoạn 2010–2020, các hiện tượng thời tiết cực đoan đã khiến miền núi phía Bắc thiệt hại hơn 16.000 tỷ đồng. Từ đầu năm 2025 đến nay, thiên tai đã làm 114 người chết và mất tích, thiệt hại kinh tế ước tính hơn 553 tỷ đồng.
Ông Thủy nhấn mạnh rằng, thiếu thông tin đi liền với thiếu nguồn lực tạo ra trở ngại lớn. Trong khi các hộ khá giả và doanh nghiệp tiếp cận nhanh các cơ hội sản xuất, thị trường và chính sách hỗ trợ, người nghèo thường không biết vị trí của mình trong chuỗi sản xuất, thiếu thông tin về kỹ thuật, thị trường tiêu thụ và cơ chế hỗ trợ từ Nhà nước. Họ như “lạc trong rừng mà không có bản đồ”, khó chủ động tổ chức sản xuất hay đầu tư cải thiện sinh kế.
Hệ quả là vòng luẩn quẩn vốn – năng suất – sản phẩm. Thiếu vốn, công cụ hạn chế, nông sản chất lượng thấp, dễ bị sâu bệnh hoặc chưa đạt chuẩn thị trường. Sản phẩm bán ra giá trị thấp, thu nhập thấp, không đủ tiền tái đầu tư, kéo theo duy trì tình trạng nghèo. Sự thiếu hụt vốn, công cụ và thông tin kết hợp tạo ra một chu trình khép kín khó vượt ra, khiến người dân dễ rơi vào tình trạng tái nghèo, đặc biệt khi thiên tai liên tục xảy ra.
Giải pháp đào tạo nghề và sinh kế cho người nghèo
Trước thực trạng này, công tác giảm nghèo bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu trở nên cấp thiết. Theo ông Hoàng Trọng Thủy, giải pháp hiệu quả phải kết hợp đào tạo nghề, sinh kế bền vững và hỗ trợ kỹ thuật, tài chính. Ông đề xuất bốn “chìa khóa” quan trọng.

Mưa đá gây thiệt hại nặng nề hoa màu của bà con vùng miền núi phía Bắc
Thứ nhất, gắn đào tạo nghề với sinh kế thực tế và khả năng thích ứng với thiên tai. Theo đó, đào tạo nghề không chỉ là dạy lý thuyết mà phải giúp người dân nhận ra lợi ích trực tiếp. Các mô hình cần xuất phát từ nhu cầu sản xuất và đời sống của cộng đồng miền núi, bãi ngang ven biển, Trường Sơn hay Đồng bằng sông Cửu Long. Ví dụ, hướng dẫn trồng cây, nuôi trồng vật nuôi thích ứng với thiên tai hoặc phân khúc thị trường thấp giúp người dân vừa duy trì thu nhập, vừa tăng khả năng chống chịu rủi ro. Chỉ khi thấy lợi ích thực tế, người dân mới chủ động tham gia và áp dụng vào sản xuất.
Thứ hai, tập trung vào kỹ thuật sản xuất, phòng chống dịch bệnh và bảo quản sau thu hoạch. Việc đảm bảo vật nuôi và cây trồng sống sót, cùng bảo quản sau thu hoạch đúng cách, giúp sản phẩm đến tay người tiêu dùng vẫn tươi ngon, đạt chất lượng và bán được giá phù hợp với khả năng tiếp cận thị trường của người dân. Đây là bước then chốt quyết định hiệu quả sản xuất, giảm thiệt hại và ổn định thu nhập.
Thứ ba, phát triển nghề phi nông nghiệp và sản phẩm có giá trị thực tế, có thị trường gần. Đa dạng hóa nghề nghiệp giúp giảm sự phụ thuộc hoàn toàn vào nông nghiệp – lĩnh vực dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Người dân có thể phát triển nghề tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống hoặc chế biến sản phẩm từ nguyên liệu rừng, vừa bảo tồn văn hóa, vừa nâng cao thu nhập. Trong nông nghiệp, ưu tiên các mô hình vòng quay nhanh như nuôi gia cầm, cá nước lợ, giúp thu hoạch sớm, giảm rủi ro dịch bệnh và đảm bảo dòng tiền liên tục. Với những hộ có năng lực cao, có thể đầu tư chăn nuôi gia súc, nhưng cần tính toán kỹ vốn và thị trường tiêu thụ.
Thứ tư, xây dựng mạng lưới dẫn dắt thực tế và hỗ trợ toàn diện về tài chính, sinh hoạt. Người lao động không chỉ cần kỹ năng mà còn cần cơ hội thực hành, tham gia sản xuất, học hỏi và bán sản phẩm. Mạng lưới này có thể do hợp tác xã, chủ trang trại hoặc các hộ sản xuất giỏi dẫn dắt, hướng dẫn trực tiếp từ khâu sản xuất đến tiêu thụ. Những người dẫn dắt phải có kinh nghiệm thực tế để vừa chỉ việc, vừa tạo cơ hội học nghề bài bản, hình thành ý thức trách nhiệm và tinh thần cộng đồng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hỗ trợ chi phí học nghề, sinh hoạt, đi lại, để người nghèo tiếp cận đào tạo một cách thực chất.
Ông Thủy nhấn mạnh rằng, chỉ khi kết hợp cơ chế chính sách phù hợp, sự đồng hành của cộng đồng, doanh nghiệp và người dẫn dắt giàu kinh nghiệm, người nghèo mới thực sự nâng cao năng lực, duy trì thu nhập và thoát nghèo bền vững.
Những chiến lược này không chỉ giúp người dân duy trì sản xuất sau thiên tai, mà còn tạo cơ hội phát triển dài hạn. Việc áp dụng kỹ thuật thích ứng, quản lý rủi ro và phát triển đa dạng sinh kế giúp người nghèo tăng khả năng chống chịu, hạn chế thiệt hại và xây dựng nguồn thu ổn định. Đồng thời, việc đào tạo nghề gắn với thị trường thực tế cũng khuyến khích tinh thần tự chủ, chủ động và sáng tạo trong cộng đồng.
Giảm nghèo thích ứng với biến đổi khí hậu không chỉ là “cho cần câu” hay dạy nghề đơn thuần, mà là xây dựng cả hệ thống sinh kế, kỹ thuật và mạng lưới hỗ trợ để người nghèo đứng vững, phát triển bền vững trong môi trường ngày càng bất định. Đây là hướng đi chiến lược, cần sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, cộng đồng, doanh nghiệp và chính người dân để từng bước phá vỡ vòng luẩn quẩn nghèo bền vững.
Tin cùng chuyên mục


Vùng cao A Lưới đẩy mạnh phát triển công nghiệp, giảm nghèo bền vững

Nông nghiệp sạch - chìa khóa mở lối giảm nghèo nơi miền núi
