Hợp tác xã điện tử mở lối thoát nghèo cho nông dân vùng cao

Mô hình hợp tác xã điện tử đang mở hướng đi mới cho kinh tế nông thôn, tạo sinh kế và thu nhập ổn định giúp cộng đồng thoát nghèo.
Phương Cúc

Ứng dụng số mở rộng cơ hội sinh kế mới

Thời gian qua, sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Tuyên Quang đã từng bước khẳng định vị thế, trở thành niềm tin của người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Với sự kết nối của ngành Công Thương và các đơn vị liên quan, nhiều sản phẩm không chỉ có mặt ở các kênh phân phối hiện đại, sàn thương mại điện tử, mà còn vươn tới thị trường xuất khẩu. Đây chính là “tấm hộ chiếu” đưa hình ảnh nông sản xứ Tuyên đến với bạn bè quốc tế, đồng thời mang lại thu nhập ổn định cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo.

Ông Nguyễn Thế Hải, Giám đốc Hợp tác xã chuối sạch Chiêu Yên trực tiếp livestream bán hàng trên các nền tảng mạng xã hội và các sàn thương mại điện tử. Ảnh: NVCC

Ông Nguyễn Thế Hải, Giám đốc Hợp tác xã chuối sạch Chiêu Yên trực tiếp livestream bán hàng trên các nền tảng mạng xã hội và các sàn thương mại điện tử. Ảnh: NVCC

Một trong những điển hình là Hợp tác xã chuối sạch Chiêu Yên, xã Lực Hành. Sau thành công với sản phẩm chuối sấy dẻo, hợp tác xã tiếp tục chinh phục thị trường châu Âu bằng chuối sấy giòn. Ông Nguyễn Thế Hải, Giám đốc Hợp tác xã chuối sạch Chiêu Yên, cho biết, năm 2024, hợp tác xã ký hợp đồng với Công ty Cổ phần R.Y.B (Hà Nội), xuất khẩu 600 hũ chuối sấy dẻo sang Vương quốc Anh. Lần đầu ra mắt, sản phẩm đã nhanh chóng lấy được niềm tin từ người tiêu dùng, mở ra cơ hội mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao thu nhập cho thành viên hợp tác xã.

Sản phẩm chuối sấy dẻo của Hợp tác xã Chiêu Yên đạt OCOP 3 sao. Ảnh: NVCC

Sản phẩm chuối sấy dẻo của Hợp tác xã Chiêu Yên đạt OCOP 3 sao. Ảnh: NVCC

Không chỉ có chuối sấy, trà Shan tuyết Phìn Hồ, xã Thông Nguyên, cũng trở thành sản phẩm OCOP 5 sao cấp Quốc gia, được đánh giá cao cả về chất lượng lẫn câu chuyện thương hiệu. Bà Lý Mùi Mương, Phó Giám đốc Hợp tác xã chế biến trà Phìn Hồ, nhấn mạnh, để chinh phục người tiêu dùng, cốt lõi vẫn là chất lượng, hợp tác xã áp dụng quy trình sản xuất hữu cơ, không dùng phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, giữ cành tán cây chè tự nhiên, tích tụ phân hữu cơ từ cây trồng quanh gốc. Tất cả đều theo đúng tiêu chuẩn hữu cơ châu Âu, đảm bảo an toàn cho sức khỏe cho người tiêu dùng.

Chính nhờ sự đầu tư nghiêm túc vào chất lượng, trà Phìn Hồ không chỉ là một loại đồ uống, mà còn là câu chuyện văn hóa của đồng bào Dao đỏ, gắn liền với những cây chè hàng trăm năm tuổi. Sản phẩm OCOP này vừa nâng cao thu nhập cho người dân vùng cao, vừa giữ gìn giá trị truyền thống.

Theo bà Nguyễn Thanh Hương, Giám đốc Công ty Cổ phần R.Y.B, các chủ thể OCOP đã có bước chuyển mình mạnh mẽ, từ sản xuất nhỏ lẻ, tự phát sang chiến lược sản xuất bền vững, gắn với tiêu chuẩn chất lượng. Đây chính là lý do doanh nghiệp tin tưởng, hợp tác lâu dài. Hiện nay, hợp tác xã đang phối hợp đặt hàng 7 mặt hàng OCOP xuất khẩu sang châu Âu, Mỹ, Đài Loan và một số quốc gia khác..

Tuy nhiên, để sản phẩm OCOP phát triển bền vững, vẫn còn một thách thức lớn như thiếu nhận diện thương hiệu. Nhiều sản phẩm mới chỉ dừng ở nhãn mác “OCOP”, chưa có logo, bao bì hay câu chuyện đủ hấp dẫn để tạo ấn tượng mạnh với khách hàng. Điều đó cho thấy, “nâng chất” đi đôi với “làm thương hiệu” sẽ là chìa khóa để sản phẩm OCOP thực sự bứt phá, tạo thêm việc làm và góp phần xóa nghèo bền vững cho người dân nông thôn.

Hợp tác xã điện tử - Cầu nối số hóa cho sản phẩm OCOP

Song song với việc nâng chất sản phẩm, việc số hóa quản trị và kinh doanh thông qua mô hình hợp tác xã điện tử được xem là hướng đi tất yếu. Mô hình này ứng dụng nền tảng số trong mọi hoạt động, từ quản lý nội bộ, kế toán, thanh toán điện tử đến tiếp thị, phân phối và truy xuất nguồn gốc. Nhờ đó, các hộ sản xuất nhỏ lẻ vừa minh bạch hóa hoạt động, vừa tiết kiệm chi phí, lại có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị hiện đại.

Theo Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, cả nước hiện có gần 35.000 hợp tác xã với hơn 6 triệu thành viên, tạo việc làm cho 1,65 triệu lao động. Trong số này, nhiều hợp tác xã nông nghiệp, logistics, dịch vụ đã bước đầu ứng dụng nền tảng số, giúp giảm chi phí sản xuất 15-20% và tăng năng suất 15-28%. Đây là con số cho thấy hiệu quả rõ rệt của chuyển đổi số đối với mô hình hợp tác xã.

Tuy vậy, hành trình xây dựng hợp tác xã điện tử không dễ dàng. Hạ tầng công nghệ ở một số địa phương chưa đồng bộ, năng lực số của cán bộ và xã viên còn hạn chế, nguồn lực tài chính chưa đủ để đầu tư. Cùng với đó, hành lang pháp lý và chính sách hỗ trợ vẫn cần hoàn thiện.

Hợp tác xã điện tử có vai trò như cầu nối số hóa đưa các sản phẩm nông nghiệp vươn xa. Ảnh minh họa

Hợp tác xã điện tử có vai trò như cầu nối số hóa đưa các sản phẩm nông nghiệp vươn xa. Ảnh minh họa

Để giải quyết, các chuyên gia đề xuất cần có giải pháp tổng thể, từ hạ tầng công nghệ, nguồn vốn đến đào tạo kỹ năng số cho xã viên. Khi kết hợp với các sản phẩm nông nghiệp, hợp tác xã điện tử sẽ đóng vai trò “cầu nối số hóa” giúp nông sản chất lượng cao như chuối sấy Chiêu Yên, trà Shan tuyết Phìn Hồ không chỉ có chỗ đứng trong nước, mà còn vươn ra toàn cầu. Đây chính là sự gắn kết giữa “nâng chất” và “số hóa”, vừa gia tăng giá trị sản phẩm, vừa mở rộng thị trường, tạo việc làm, nâng thu nhập và góp phần giảm nghèo một cách bền vững.

Sự kết hợp giữa nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp và phát triển mô hình hợp tác xã điện tử chính là chìa khóa mở ra tương lai rạng rỡ cho nông sản Việt Nam. Khi mỗi sản phẩm đều có thương hiệu mạnh, được quản lý minh bạch trên nền tảng số, đó không chỉ là một lựa chọn tiêu dùng, mà còn là niềm tự hào của người dân, đồng thời là động lực giảm nghèo và phát triển bền vững ở nông thôn.

Bình luận

Tin cùng chuyên mục