
Sinh kế bền vững từ cây luồng cho đồng bào miền núi xứ Thanh
Kinh tế nông thôn và miền núi12:22 | 24/08/2025
Thanh Hóa được coi là “thủ phủ” của cây luồng khi sở hữu diện tích lớn nhất cả nước. Từ nguồn tài nguyên xanh này, những năm gần đây, đồng bào miền núi xứ Thanh đã thoát nghèo, nhiều sản phẩm còn vươn ra thị trường quốc tế.
Tiềm năng “vàng xanh” nơi miền sơn cước
Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi cây luồng là “vàng xanh” của miền Tây Thanh Hóa. Với diện tích lên tới 128.000 ha, Thanh Hóa hiện là tỉnh có rừng luồng lớn nhất cả nước. Cây luồng mọc thành rừng, bám chắc vào đất dốc, vừa giữ đất, giữ nước, vừa mang lại nguồn sinh kế cho hàng vạn hộ dân miền núi.
Tuy nhiên, trong nhiều năm, giá trị kinh tế từ luồng chưa tương xứng với tiềm năng. Chỉ khoảng 40% sản lượng được đưa vào chế biến sâu, còn lại chủ yếu tiêu thụ thô. Thu nhập bình quân từ rừng luồng chỉ đạt 7–9 triệu đồng/ha/năm, nhiều diện tích khai thác quá mức dẫn đến thoái hóa, chiếm tới 46,2% diện tích toàn tỉnh.
Trước thực tế đó, Thanh Hóa đã chọn phát triển bền vững cây luồng như một trụ cột quan trọng trong chiến lược giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới.

Cây luồng được ví như "vàng xanh" nơi miền sơn cước. Ảnh: Thanh Phúc
Ông Cao Văn Cường, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Thanh Hóa cho biết, thời gian qua đơn vị đã phối hợp với các sở, ngành, địa phương và doanh nghiệp xây dựng mô hình phát triển tre luồng theo chuỗi giá trị để nhân rộng.
Tỉnh Thanh Hóa cũng đã đưa ra nhiều chính sách đồng hành cùng bà con vùng dân tộc, miền núi như hỗ trợ 2 triệu đồng/ha/năm, trong 2 năm đầu để thâm canh, phục tráng rừng luồng; khuyến khích cấp chứng chỉ rừng FSC, hướng tới sản xuất xanh và bền vững; đầu tư hạ tầng giao thông vào vùng nguyên liệu, giúp vận chuyển, thu hoạch thuận lợi; xây dựng các mô hình liên kết chuỗi giá trị từ trồng, khai thác, chế biến đến tiêu thụ...
Các chính sách trên không chỉ giúp bảo vệ rừng luồng mà còn từng bước thay đổi tư duy sản xuất tự phát của người dân sang phát triển hàng hóa chuyên canh, có tổ chức.

Cây luồng đã giúp bà con vùng cao xứ Thanh thoát nghèo, ổn định cuộc sống. Ảnh: Quỳnh Trâm
Ông Vi Hồng Nghị, xã Đồng Lương chia sẻ, gia đình ông có 6 ha rừng luồng đạt chuẩn FSC. Khi tham gia vào chuỗi sản xuất, ông được hỗ trợ mua giống, hướng dẫn kỹ thuật trồng, bón phân và chăm sóc. Trước kia trồng tự do, chưa chú trọng giống và kỹ thuật, hiệu quả thấp và giá bấp bênh. Sau khi chuyển sang mô hình chuẩn, thu nhập của gia đình tăng lên khoảng 30 triệu đồng/ha/năm.
Đưa cây luồng xuất khẩu quốc tế
Theo số liệu thống kê mới nhất của tỉnh Thanh Hóa, trên địa bàn các xã miền núi hiện có gần 60 cơ sở chế biến luồng, nhiều đơn vị đã mạnh dạn đầu tư máy móc hiện đại: cắt, chẻ, ép, hấp sấy, xử lý chống mối mọt… Nhờ đó, sản phẩm luồng không còn đơn thuần là đũa, tăm, đan lát mà đã trở thành ống hút, bàn chải, khay đựng, đồ trang trí, thậm chí cả nội thất cao cấp.

Nhiêu cơ sở chế biến luồng trên các xã miền núi Thanh Hóa đã giúp người dân địa phương ổn định cuộc sống. Ảnh internet
Đặc biệt, các sản phẩm này đã đáp ứng tiêu chuẩn của những thị trường khó tính như châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc. Đây là bước chuyển từ “bán thô” sang “bán tinh”, tạo giá trị gia tăng lớn và mở ra hướng đi bền vững.
Cùng với sự vào cuộc của chính quyền, các hợp tác xã, doanh nghiệp chế biến luồng cũng góp phần quan trọng vào việc nâng cao thu nhập cho bà con miền núi.
Đơn cử như Hợp tác xã Sông Mã (xã Hồi Xuân) đã đạt doanh thu hàng chục tỷ đồng mỗi năm, tạo việc làm cho hàng trăm lao động với thu nhập 7–8 triệu đồng/tháng.HTX Hợp Phát giúp nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số có việc làm ổn định, lương trung bình 8 triệu đồng/tháng.
Công ty TNHH Vibabo ký hợp đồng xuất khẩu dài hạn ống hút, đồ gia dụng, nội thất tre luồng, đạt doanh thu 3–4 tỷ đồng/năm, tạo việc làm cho khoảng 30 lao động với thu nhập gần 100 triệu đồng/người/năm.
Những mô hình này không chỉ giúp bà con dân tộc thiểu số có cuộc sống ổn định hơn, mà còn góp phần giữ chân lao động trẻ ở lại quê hương, thay vì phải tha hương tìm việc.

Nhiều sản phẩm từ luồng đã thành đồ lưu niệm được ông nhận OCOP, xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Ảnh: Thúy Lượng
Hiện nay, mỗi năm Thanh Hóa cung cấp khoảng 60 triệu cây luồng (tương đương 1,6 triệu tấn) và 80.000 tấn nguyên liệu khác cho chế biến và xuất khẩu.
Theo kế hoạch, đến năm 2025, tỉnh đặt mục tiêu 85% sản lượng tiêu thụ trong nước, 15% xuất khẩu; đến năm 2030, tỷ lệ này là 75% và 25%. Con số này thể hiện tham vọng đưa sản phẩm luồng xứ Thanh khẳng định thương hiệu trên bản đồ thế giới.
Từ một loại cây gắn liền với đời sống dân dã, luồng đã trở thành sinh kế xanh, giúp đồng bào miền núi xứ Thanh vươn lên thoát nghèo. Hình ảnh những rừng luồng bạt ngàn không chỉ là lá chắn sinh thái mà còn là minh chứng cho hành trình đổi thay: từ sản xuất manh mún sang sản xuất hàng hóa, từ tiêu thụ nội địa sang xuất khẩu quốc tế.
Cùng với chính sách hỗ trợ của tỉnh, đó là sự tham gia tích cực của các hợp tác xã và doanh nghiệp đã biến những khu rừng xanh thành “kho vàng” thực sự, mang lại thu nhập bền vững cho người dân vùng cao xứ Thanh.
Sự đồng hành của chính quyền, doanh nghiệp và người dân trong việc khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên bản địa đã giuos bà con vùng cao thoát nghèo. Nếu tiếp tục phát huy lợi thế và đẩy mạnh chế biến sâu, cây luồng Thanh Hóa không chỉ giúp hàng vạn hộ dân miền núi ổn định cuộc sống mà còn góp phần đưa thương hiệu hàng Việt Nam vươn xa trên thị trường quốc tế.
Tin cùng chuyên mục


Đòn bẩy giảm nghèo từ đặc sản bản địa

Dứa được mùa, nông dân Thanh Hóa, Nghệ An phấn khởi

Người vùng cao xứ Thanh tìm thấy tương lai nhờ cây dược liệu
Đọc nhiều

Longform | Lạng Sơn: Số hóa chợ truyền thống, mở lối giảm nghèo bền vững

Những mô hình kinh tế giúp đồng bào ở A Lưới 2 thoát nghèo bền vững

Longform | Nông sản vùng dân tộc: Khẳng định bản sắc, chinh phục thị trường toàn cầu: Bài 1

Cây giang lấy lá - mạch sống mới của vùng cao Đông Bắc Bộ
