Xây dựng chuỗi giá trị: Hướng đi bền vững cho kinh tế miền núi

Xây dựng chuỗi giá trị sản xuất hàng hóa là hướng đi quan trọng nhằm tạo đòn bẩy phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Bảo Thoa

Việt Nam đang đẩy mạnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, do vậy việc hình thành các chuỗi giá trị sản xuất, kinh doanh nông sản ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi được xem là một trong những hướng đi chiến lược để nâng cao thu nhập, tạo sinh kế ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương về vấn đề này.

Nâng cao chuỗi giá trí sản xuất, tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Ảnh minh họa

Nâng cao chuỗi giá trí sản xuất, tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Ảnh minh họa 

Thưa ông, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được xem là khu vực có nhiều tiềm năng phát triển hàng hoá nông sản đặc trưng. Từ góc độ chuyên gia nông nghiệp, ông chia sẻ gì về điều này?

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy: Như chúng ta thấy, vùng dân tộc thiểu số và miền núi của nước ta có những lợi thế mà hiếm nơi nào có được, như khí hậu, thổ nhưỡng, độ cao, và đa dạng sinh học vô cùng phong phú. Đây chính là “mỏ vàng xanh” cho nông nghiệp đặc sản.  

Thời gian qua, các sản phẩm như chè Shan tuyết Tuyên Quang, quế Lào Cai, hồi Lạng Sơn, cà phê Sơn La, mắc ca Tây Nguyên, mật ong bạc hà Đồng Văn, hay các loại dược liệu quý ở Lào Cai, Cao Bằng… đã trở thành những thương hiệu lớn, được thị trường trong và ngoài nước đón nhận.

Không chỉ mang lại nguồn thu, các sản phẩm này còn gắn với văn hóa, tri thức bản địa và lối sống bền vững của đồng bào. Mỗi sản phẩm là một câu chuyện, một biểu tượng của văn hoá vùng cao. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải biến tiềm năng thành giá trị, mà điều đó chỉ có thể đạt được khi hình thành được chuỗi sản xuất, chế biến, tiêu thụ cho hàng hoá. Đặc biệt, khi thị trường đang không ngừng đòi hỏi khắt khe về chất lượng và các yếu tố về môi trường, phát triển bền vững.

- Với tiềm năng cũng như thực tế nhiều địa phương triển khai mô hình sản xuất hàng hóa nhưng hiệu quả chưa cao. Theo ông, những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay trong phát triển chuỗi giá trị sản xuất, kinh doanh vùng dân tộc thiểu số là gì?

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy: Thực tế hiện nay, sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn còn manh mún, phụ thuộc vào tự nhiên và thương lái. Người dân chưa được hỗ trợ nhiều về kỹ thuật, vốn và công nghệ. Họ chủ yếu làm theo kinh nghiệm, thiếu quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung, chưa có thương hiệu và truy xuất nguồn gốc rõ ràng.

Khâu sau thu hoạch là sơ chế, bảo quản vẫn rất yếu. Điều đó khiến hàng hoá, nhất là nông sản vùng cao thường “được mùa, mất giá”. Khi sản phẩm chưa qua chế biến, giá trị rất thấp, lại dễ hư hỏng, dẫn đến thiệt hại kép cho người dân.

Một điểm yếu nữa là liên kết trong chuỗi còn lỏng lẻo. Doanh nghiệp, hợp tác xã và người nông dân chưa thực sự gắn bó. Ở đâu có doanh nghiệp đầu tàu đứng ra tổ chức sản xuất, bao tiêu sản phẩm, ở đó nông dân làm giàu. Nhưng ở nhiều nơi, doanh nghiệp còn e ngại do chi phí logistics cao, hạ tầng khó khăn, pháp lý đất đai chưa ổn định. Tất cả khiến chuỗi giá trị chưa thực sự được hình thành đúng nghĩa.

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ

- Như vậy, để khai thác tốt tiềm năng và khắc phục những hạn chế trên, theo ông cần tập trung vào những giải pháp trọng tâm nào?

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy: Trước hết, phải củng cố nền sản xuất hàng hóa gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu ổn định. Khi có vùng nguyên liệu đủ lớn, doanh nghiệp mới mạnh dạn đầu tư chế biến và xây dựng thương hiệu. Bên cạnh đó, cần đưa doanh nghiệp vào làm trung tâm của chuỗi giá trị, bởi doanh nghiệp là người kết nối thị trường, định hướng sản xuất và chịu trách nhiệm chất lượng sản phẩm.

Tôi cho rằng, Nhà nước nên khuyến khích doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã và tổ hợp tác đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Họ không chỉ mang lại vốn, mà còn mang theo công nghệ, quy trình quản lý, mở đầu ra thị trường. Khi doanh nghiệp và người dân cùng đồng hành, lợi ích được chia sẻ, rủi ro được giảm thiểu, thì chuỗi giá trị sẽ tự nhiên phát triển.

Ngoài ra, phải quan tâm đến công nghiệp chế biến sâu. Đây là khâu quyết định giá trị gia tăng của nông sản. Quế, hồi, chè hay dược liệu nếu chỉ bán thô thì giá trị rất thấp, nhưng nếu chế biến thành tinh dầu, trà túi lọc, mỹ phẩm, dược phẩm… giá trị có thể tăng gấp 5-10 lần. Chính vì thế, cần hình thành cụm công nghiệp chế biến tại chỗ, vừa giảm chi phí vận chuyển, vừa tạo việc làm cho người dân địa phương.

Đặc biệt, không thể thiếu nguồn nhân lực bản địa. Phải đào tạo, nâng cao kỹ năng cho bà hiểu về sản xuất, biết quản lý, có khả năng ứng dụng công nghệ cũng như xúc tiến thị trường cho sản phẩm, hàng hoá. 

- Đề cập đến vai trò của doanh nghiệp tư nhân, vậy ông nhìn nhận như thế nào về tiềm năng của khu vực này trong việc thúc đẩy phát triển vùng dân tộc thiểu số?

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy: Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế. Hiện khu vực này đóng góp gần 45% GDP, hơn 30% thu ngân sách và sử dụng trên 85% lao động cả nước. Nhưng đáng tiếc, mới chỉ khoảng 2% doanh nghiệp tư nhân hoạt động ở vùng dân tộc thiểu số, đây là một tỷ lệ quá khiêm tốn so với tiềm năng của khu vực.

Chúng ta cần nhìn nhận rằng vùng dân tộc thiểu số không chỉ là vùng khó, mà còn là vùng có cơ hội lớn. Với nguồn nguyên liệu phong phú và nhu cầu thị trường đa dạng, đây là “đất lành” cho doanh nghiệp đầu tư sản xuất.

Đặc biệt, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 2025 đã xác định rõ phát triển kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Trong đó, tầm nhìn đến năm 2045, kinh tế tư nhân Việt Nam phát triển nhanh, mạnh, bền vững, chủ động tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu... 

Vì thế, với định hướng phát triển kinh tế tư nhân cùng các chính sách, cơ chế tạo điều kiện cho khu vực này hoạt động sẽ là động lực để thu hút đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên,  chúng ta cần môi trường đầu tư minh bạch, ổn định và có chính sách ưu đãi rõ ràng. Ngoài ra, Nhà nước phải đi trước trong xây dựng hạ tầng, điện, nước, giao thông, đất đai. 

Bên cạnh đó, cần những chính sách hỗ trợ đặc thù như miễn giảm thuế, ưu đãi tín dụng, quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp đầu tư vào các vùng khó khăn. Hy vọng, khi kinh tế tư nhân vào cuộc mạnh mẽ, kinh tế vùng dân tộc thiểu số và miền núi sẽ có cơ hội phát triển khởi sắc.

Các chính sách, cơ chế về phát triển kinh tế tư nhân sẽ tạo cơ hội để thu hút đầu tư, phát triển thị trường cho hàng hoá vùng cao. Ảnh minh họa

Các chính sách, cơ chế về phát triển kinh tế tư nhân sẽ tạo cơ hội để thu hút đầu tư, phát triển thị trường cho hàng hoá vùng cao. Ảnh minh họa

- Trong bối cảnh kinh tế số, ông đánh giá thế nào về vai trò của thương mại điện tử đối với việc mở rộng chuỗi giá trị và tiêu thụ sản phẩm vùng cao?

Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thủy: Tôi cho rằng thương mại điện tử là “cánh tay nối dài” của chuỗi giá trị nông sản, hàng hoá đối vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Trước đây, hàng hoá, nông sản vùng cao thường chỉ quanh quẩn trong phạm vi ở các phiên chợ. Giờ đây, nhờ thương mại điện tử, sản phẩm có thể đến với người tiêu dùng cả nước, thậm chí xuất khẩu.

Bên cạnh đó, thương mại điện tử đã góp phần thay đổi hoàn toàn tư duy sản xuất của người nông dân. Họ bắt đầu quan tâm hơn đến bao bì, chất lượng, chứng nhận an toàn, vì hiểu rằng sản phẩm của mình không còn bán cho “người quen”, mà đang bước vào thị trường rộng hơn. Đồng thời, khi người dân hiểu rằng sản phẩm của họ có thể bán ở bất kỳ đâu, họ sẽ đầu tư nghiêm túc hơn, gắn bó lâu dài hơn với nghề. Đó chính là nền tảng để hình thành chuỗi giá trị hiện đại, bền vững.

Tuy nhiên, để thương mại điện tử thực sự phát huy hiệu quả ở vùng cao, cần thu hẹp khoảng cách công nghệ và hạ tầng, bởi nhiều địa phương miền núi vẫn còn thiếu đường truyền Internet ổn định, hệ thống thanh toán điện tử, logistics còn yếu. Ngoài ra, cần mở rộng quy mô, đào tạo kỹ năng số cho cán bộ hợp tác xã và hộ sản xuất, để người dân chủ động hơn trong việc tiếp cận thị trường.

- Xin cảm ơn ông!

Theo chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ, khi doanh nghiệp, hợp tác xã và người dân cùng liên kết trong một hệ sinh thái sản xuất, tiêu thụ minh bạch, bền vững, lợi ích sẽ lan tỏa đến từng bản làng. Người dân có việc làm, có thu nhập ổn định, cơ sở hạ tầng được cải thiện. Đây là cách thiết thực nhất để giảm nghèo và giữ gìn bản sắc vùng cao.

Bình luận

Tin cùng chuyên mục