Du lịch cộng đồng: Lan toả bản sắc, giảm nghèo bền vững

Du lịch cộng đồng đang trở thành nguồn sinh kế mới giúp đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi cải thiện thu nhập, giảm nghèo bền vững.
Bảo Thoa

Không chỉ mang lại thu nhập ổn định, du lịch cộng đồng còn mở ra hướng phát triển bền vững, gắn kết kinh tế với văn hóa và con người bản địa. Thời gian qua, từ những bản làng heo hút của Tuyên Quang, Sơn La, Lào Cai cho đến những cao nguyên lộng gió ở Tây Nguyên, du lịch đã giúp người dân khai thác chính những giá trị truyền thống như nghề dệt thổ cẩm, ẩm thực dân tộc, lễ hội và phong tục.

Hơn thế, mô hình này còn khơi dậy ý thức gìn giữ môi trường, tôn trọng khách du lịch và nâng cao niềm tự hào văn hóa dân tộc, biến những bản làng vùng cao thành điểm đến văn hóa, nơi mỗi người dân vừa là chủ nhân, vừa là đại sứ du lịch của quê hương mình.

Ông Lê Công Năng – CEO Công ty Wondertour, Chủ tịch Diễn đàn doanh nhân Việt Nam đã có cuộc chia sẻ về tiềm năng cũng như giải pháp để khai thác các giá trị của du lịch vùng dân tộc thiểu số miền núi, qua đó góp phần thực hiện các mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Du lịch cộng đồng hấp dẫn khách du lịch. Ảnh minh họa

Du lịch cộng đồng hấp dẫn khách du lịch. Ảnh minh họa

 Động lực sinh kế vùng cao

- Là một doanh nghiệp gắn bó với ngành du lịch, ông đánh giá như thế nào về tiềm năng du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi?

Ông Lê Công Năng: Vùng dân tộc thiểu số và miền núi là nơi hội tụ trọn vẹn vẻ đẹp thiên nhiên, văn hóa và con người, là ba yếu tố cốt lõi tạo nên sức hút lâu dài của điểm đến.

Đơn cử như, khi du khách đến với Tuyên Quang, Lào Cai, Điện Biên, Sơn La không chỉ để ngắm cảnh, mà còn để được “sống cùng văn hóa”, được hòa mình vào nhịp sống của đồng bào dân tộc, thưởng thức ẩm thực địa phương, nghe tiếng khèn, điệu múa, và cảm nhận tinh thần hiếu khách chân thành.

Trong xu hướng du lịch toàn cầu hiện nay, khi du khách ngày càng tìm kiếm trải nghiệm chân thực, bền vững và giàu ý nghĩa, thì vùng dân tộc thiểu số và miền núi chính là “mỏ vàng” của du lịch Việt Nam, nơi có thể phát triển mạnh du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa, du lịch nghỉ dưỡng sinh thái và du lịch sức khỏe.

- Từ tiềm năng đó, ở góc độ doanh nghiệp trong ngành du lịch, ông đánh giá gì về thực trạng khai thác du lịch tại khu vực này phát triển như thế nào? Đồng thời, theo ông du lịch đã có đóng góp ra sao trong việc giảm nghèo đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi?

Ông Lê Công Năng: Thực tế đã chứng minh du lịch đang tạo ra sự thay đổi rõ nét trong đời sống của người dân vùng cao. Ở nhiều điểm du lịch như Sa Pa, Mộc Châu, Mù Cang Chải, Pà Cò – Hang Kia, bản Áng, bản Lác…, du lịch đã giúp người dân có thêm nguồn thu nhập ổn định. Từ việc làm du lịch cộng đồng, mở homestay, bán sản phẩm thủ công, nông sản sạch, người dân không chỉ cải thiện kinh tế mà còn gìn giữ được giá trị văn hóa của dân tộc mình.

Du lịch cộng đồng cũng tạo ra sự thay đổi trong tư duy làm kinh tế của đồng bào. Đó là, người dân đã dần chuyển từ “làm du lịch theo bản năng” sang “làm du lịch chuyên nghiệp”. Bên cạnh đó, họ ý thức hơn về việc bảo vệ môi trường, tôn trọng khách và giữ gìn bản sắc. Chính sự thay đổi ấy là nền tảng cho giảm nghèo bền vững, giúp du lịch trở thành một ngành kinh tế thực sự mang lại sinh kế lâu dài cho cộng đồng.

Ông Lê Công Năng – CEO Công ty Wondertour, Chủ tịch Diễn đàn doanh nhân Việt Nam

Ông Lê Công Năng – CEO Công ty Wondertour, Chủ tịch Diễn đàn doanh nhân Việt Nam

- Tuy nhiên, ngoài những tác động tích cực, theo ông đâu là điểm nghẽn trong khai thác du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi thời gian qua?

Ông Lê Công Năng: Có thể nói, chúng ta vẫn đang gặp ba nhóm điểm nghẽn lớn.

Thứ nhất là hạ tầng giao thông và dịch vụ chưa đồng bộ. Nhiều điểm đến còn khó tiếp cận, cơ sở lưu trú nhỏ lẻ, thiếu tiện nghi, chưa đáp ứng được kỳ vọng của khách quốc tế.

Thứ hai là thiếu quy hoạch tổng thể và liên kết vùng. Các địa phương phát triển rời rạc, thiếu định hướng sản phẩm chung, dẫn tới sự trùng lặp hoặc cạnh tranh nội bộ.

Thứ ba là nguồn nhân lực và công tác truyền thông còn yếu. Người dân có nhiệt huyết nhưng thiếu kỹ năng quản lý, marketing, hay ứng dụng công nghệ. Trong khi đó, các câu chuyện văn hóa đặc sắc của từng bản, từng dân tộc lại chưa được kể một cách hấp dẫn và lan tỏa.

Du lịch cộng đồng vùng dân tộc thiểu số và miền còn nhiều dư địa để khai thác, phát triển. Ảnh minh họa

Du lịch cộng đồng vùng dân tộc thiểu số và miền còn nhiều dư địa để khai thác, phát triển. Ảnh minh họa

Thúc đẩy liên kết, khai phá tiềm năng

- Vậy để góp phần giảm nghèo bền vững, ông có thể nêu một số đề xuất, kiến nghị trong việc xây dựng sản phẩm và liên kết doanh nghiệp để du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển hơn nữa?

Ông Lê Công Năng: Tôi cho rằng muốn du lịch miền núi phát triển bền vững, cần tập trung vào ba hướng đi chính.

Trước hết, phải xây dựng sản phẩm du lịch đặc trưng gắn với văn hóa bản địa, lấy con người làm trung tâm. Mỗi bản, mỗi vùng cần có câu chuyện riêng, có sản phẩm riêng.

Ví dụ, bản này nổi tiếng về nghề dệt thổ cẩm, bản khác phát triển trải nghiệm nông nghiệp hữu cơ hay trị liệu bằng thảo dược. Mỗi yếu tố nhỏ đều có thể trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn nếu được khai thác đúng cách.

Ngoài ra, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa doanh nghiệp lữ hành, cộng đồng địa phương và chính quyền. Các công ty du lịch chuyên nghiệp có thể đóng vai trò trung gian trong việc đào tạo người dân, hỗ trợ marketing, kết nối tour tuyến và đưa sản phẩm bản địa lên bản đồ du lịch quốc tế.

Trong bối cảnh cạnh tranh điểm đến hiện nay, việc liên kết sẽ giúp du lịch vùng dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn củng cố bản sắc văn hóa của vùng.

Bên cạnh đó, cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ và truyền thông số. Việc xây dựng nền tảng giới thiệu sản phẩm, hệ thống đặt dịch vụ trực tuyến, bản đồ du lịch số cho vùng cao sẽ giúp khách dễ dàng tiếp cận và đặt tour. Câu chuyện du lịch vùng cao nếu được truyền tải bằng video, thực tế ảo hay trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ hấp dẫn hơn rất nhiều đối với thế hệ trẻ toàn cầu.

Du lịch cộng đồng góp phần giảm nghèo bền vững. Ảnh minh họa

Du lịch cộng đồng góp phần giảm nghèo bền vững. Ảnh minh họa

- Cùng với những giải pháp tháo gỡ điểm nghẽn đó, ông có thể nêu thêm một số mô hình kinh nghiệm quốc tế trong phát triển du lịch miền núi hiệu quả?

Ông Lê Công Năng: Chúng ta có thể học hỏi rất nhiều từ các mô hình quốc tế. Ở Chiang Mai (Thái Lan), họ đã thành công khi biến các làng nghề và vùng dân tộc thiểu số thành những “cụm du lịch cộng đồng kiểu mẫu”. Chính quyền hỗ trợ quy hoạch, hạ tầng, đồng thời khuyến khích người dân bảo tồn văn hóa gốc. Họ xây dựng tour trải nghiệm “một ngày làm người bản địa”, kết hợp giữa tham quan, học nghề, khám phá ẩm thực, biểu diễn nghệ thuật. Từ đó tạo ra sản phẩm vừa hấp dẫn vừa nhân văn.

Còn tại Bình Biên – Mông Tự (Trung Quốc), địa phương đã phát triển mạnh mô hình du lịch nông nghiệp kết hợp nghỉ dưỡng. Họ đầu tư hạ tầng giao thông, hỗ trợ vốn cho người dân cải tạo nhà ở thành homestay, đồng thời đưa công nghệ vào quảng bá, bán tour trực tuyến trên nền tảng WeChat, Douyin. Nhờ vậy, lượng khách tăng mạnh, người dân có sinh kế bền vững mà văn hóa truyền thống vẫn được bảo tồn.

Có thể nói, đây là những bài học quý giá để Việt Nam tham khảo, bởi Tây Bắc, Tây Nguyên hay vùng núi phía Bắc của chúng ta hoàn toàn có tiềm năng tương tự, thậm chí giàu bản sắc hơn. Bên cạnh đó, nếu có chiến lược đồng bộ, có cơ chế phối hợp liên vùng, và đặc biệt là đầu tư đúng trọng tâm vào con người và công nghệ, tôi tin du lịch miền núi Việt Nam sẽ trở thành biểu tượng của du lịch bền vững châu Á trong tương lai.

 - Xin cảm ơn ông!

Bình luận

Tin cùng chuyên mục