
Kênh phân phối nội địa phải là ‘đường băng’ để nông sản miền núi ‘cất cánh’
Xúc tiến thương mại06:00 | 22/05/2025
Quảng Ninh: Đẩy mạnh cung cấp thông tin, tìm đầu ra cho nông sản miền núiLongform | Để nông sản miền núi không còn ‘lỡ hẹn’ những mùa vàngNông sản miền núi: Bắt nhịp tiêu dùng xanh, tăng sức mua |
Phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ xung quanh vấn đề này.
![]() |
Chuyên gia nông nghiệp Hoàng Trọng Thuỷ (Ảnh: Quốc Chuyển) |
Định vị điểm nghẽn lớn nhất khiến hàng hóa miền núi khó chen chân vào hệ thống phân phối hiện đại
- Là một chuyên gia đã gắn bó rất nhiều năm và tâm huyết với sản phẩm miền núi, vùng dân tộc thiểu số, theo chuyên gia, đâu là “điểm nghẽn” lớn nhất khiến hàng hoá của đồng bào dân tộc miền núi khó tiếp cận các hệ thống phân phối hiện đại? Liệu có phải chỉ vì yếu tố sản lượng thấp, hay còn những rào cản sâu xa hơn?
Chuyên gia Hoàng Trọng Thủy: Tôi cho rằng có hai điểm nghẽn cơ bản. Thứ nhất là vận chuyển, tức là cung đường từ nương rẫy tới tay người tiêu dùng quá xa, hạ tầng yếu, phương tiện chưa đặc thù. Hệ quả là chất lượng sản phẩm giảm sút, mất độ tươi ngon, điều mà người tiêu dùng ngày nay đặt lên hàng đầu.
Thứ hai là tổ chức sản xuất chưa theo chuỗi. Nông dân chưa liên kết chặt chẽ với nhau để thành lập HTX, còn doanh nghiệp và nhà phân phối lại thiếu liên kết theo chiều dọc. Thiếu hợp đồng dài hạn, thiếu niềm tin, dẫn tới chuỗi liên kết “chắp vá”, không bền vững.
Ngoài ra, yếu tố chất lượng không đồng đều, sản lượng rải rác, nhãn mác, truy xuất nguồn gốc chưa rõ ràng khiến việc xây dựng thương hiệu rất khó. Đặc biệt, ba khâu yếu nhất hiện nay là sơ chế, chế biến, logistics. Đó là các rào cản mà nếu không khắc phục thì nông sản miền núi khó có thể bước vào sân chơi phân phối hiện đại.
Nhiều mô hình liên kết bị “đứt gãy” sau vài vụ mùa
- Trong thực tế triển khai, nhiều mô hình liên kết giữa hợp tác xã – doanh nghiệp phân phối – hộ dân vùng cao thường “đứt gãy” sau một vài vụ mùa. Theo ông, đâu là yếu tố cốt lõi giúp duy trì chuỗi tiêu thụ ổn định và hai bên cùng có lợi?
Chuyên gia Hoàng Trọng Thủy: Trước hết, cần nhìn thẳng vào nguyên nhân. Hợp tác xã và người dân là tác nhân đầu tiên trong chuỗi cung ứng, nhưng họ gặp khó vì thiếu kho lạnh, kho bảo quản tại vùng nguyên liệu. Đường sá khó khăn, phương tiện thô sơ, vận chuyển bằng gùi, xe máy khiến chất lượng càng xuống cấp.
Điều nguy hiểm là thiếu niềm tin, dẫn tới không có hợp đồng dài hạn. Doanh nghiệp sợ rủi ro, nông dân lại hay thay đổi khi thị trường biến động. Giá cả không gặp nhau, chuỗi bị kéo giãn, rồi… đứt!
Vậy làm sao để chuỗi bền vững? Thứ nhất là xây dựng lòng tin, minh bạch về giá, chất lượng, số lượng, có truy xuất nguồn gốc, gắn thương hiệu vùng miền. Phải có kỷ cương hợp tác giữa nông dân, doanh nghiệp và kênh phân phối. Thứ hai là xây dựng hợp tác xã vững mạnh, có tư duy thị trường. Nhiều hợp tác xã hiện nay chỉ chạy theo sản lượng, thiếu tư duy kinh doanh, tự ti khi làm việc với các hệ thống bán lẻ lớn. Giám đốc hợp tác xã và đội ngũ kế toán, tài chính phải được đào tạo bài bản thì mới dám nghĩ lớn, dám ký hợp đồng. Thứ ba là vai trò điều phối của chính quyền: đầu tư hạ tầng, hỗ trợ xây dựng kho, logistics, tạo trật tự trong mua bán. Chính quyền phải giữ vai trò “người cầm nhịp”, không thể “khoán trắng” cho thị trường tự xoay.
![]() |
Nông sản vùng miền được bày bán tại hệ thống siêu thị (Ảnh: Cấn Dũng) |
Chỉ khi ba bên Nhà nước, doanh nghiệp và nông dân cùng đi đúng hướng thì liên kết mới không đứt gãy.
Xây “đường băng” cho sản phẩm miền núi cất cánh
- Đặt trong bối cảnh chuyển đổi số và phát triển kinh tế xanh, ông đánh giá thế nào về vai trò của các nền tảng thương mại điện tử, logistics xanh và truy xuất nguồn gốc số đối với hàng hoávùng cao? Liệu đây có phải là “đường băng” để sản phẩm miền núi cất cánh?
Chuyên gia Hoàng Trọng Thủy: Tôi rất thích hình ảnh “đường băng”, bởi vì đường băng phải chắc, dài, chịu lực tốt thì máy bay mới cất cánh được. Thương mại điện tử, logistics xanh và truy xuất số chính là kết cấu nền tảng đó.
Trong đó là thương mại điện tử và ba giá trị cốt lõi: phát triển thị trường, tăng thu nhập cho người sản xuất, và giảm chi phí trung gian. Người tiêu dùng có thể tiếp cận sản phẩm bản địa mọi lúc, mọi nơi.
Bên cạnh đó là phát triển logistics xanh để giữ được chất lượng nông sản từ lúc thu hoạch đến khi lên kệ. Giảm hao hụt, tăng giá trị sinh lời, giảm chi phí vận chuyển.
Ngoài ra, truy xuất nguồn gốc số để tăng niềm tin và minh bạch. Quan trọng hơn, nó đánh vào cảm xúc, điều khiến người tiêu dùng quyết định mua hàng. Khi người mua hiểu câu chuyện của sản phẩm, biết được nơi sản xuất, giống cây, người làm ra nó… thì sản phẩm sẽ có “hồn”.
Ba yếu tố này gắn lại sẽ là đường băng vững chắc giúp sản phẩm miền núi không chỉ cất cánh mà còn bay xa, bay cao.
![]() |
Cần xây dựng thương hiệu để nâng cao giá trị cho sản phẩm (Ảnh: Cấn Dũng) |
Kể câu chuyện bản địa và xây dựng thương hiệu vùng miền hấp dẫn
- Rất nhiều đặc sản miền núi có giá trị văn hóa độc đáo, nhưng vẫn chưa tạo được chỗ đứng trong tâm trí người tiêu dùng thành thị. Vậy theo ông, làm sao để kể câu chuyện bản địa của sản phẩm một cách hấp dẫn và xây dựng được thương hiệu vùng miền cho từng sản phẩm cụ thể?
Chuyên gia Hoàng Trọng Thủy: Muốn kể câu chuyện hấp dẫn, phải trả lời được ba câu hỏi “then chốt”:
Thứ nhất, bản sắc địa phương là gì? Mỗi sản phẩm đều gắn với một vùng khí hậu, thổ nhưỡng, phong tục tập quán. Chẳng hạn, mật ong Tam Đảo phải khác mật ong Mường Lò, chè Shan tuyết cổ thụ Hà Giang phải có câu chuyện cổ tích riêng, gắn với truyền thuyết, gắn với phong tục tập quán của người dân.
Thứ hai, cảm xúc của người tiêu dùng đến từ đâu? Không chỉ là chất lượng, mà là trải nghiệm. Quà biếu có chất lượng, song phải có “chiếc áo” thật đẹp, ví dụ như mật ong có thể dùng giỏ mây tre đan, hộp gỗ dân tộc… thì sẽ tạo thiện cảm và ấn tượng hơn. Sản phẩm cần “đánh thức trái tim và cái ví của người tiêu dùng”.
Thứ ba, câu chuyện được kể như thế nào? Nông dân kể được nhưng không viết được, không dựng hình được. Vậy thì phải có sự vào cuộc của báo chí, hội phụ nữ, đoàn thanh niên, nghệ sĩ, truyền thông… để sản phẩm có được "hồn", có truyền thuyết, có chiều sâu văn hóa.
Cuối cùng là xây dựng thương hiệu vùng miền: từ tên gọi, họa tiết bao bì, đến thông điệp sản phẩm phải mang đậm dấu ấn bản địa. Tôi vẫn thường nhấn mạnh ba chữ B: Bạn – Bàn – Bán. Muốn bán được hàng, phải làm bạn với người tiêu dùng, phải bàn bạc rõ ràng, và sau đó mới là bán.
Xin cảm ơn ông!
Thực hiện Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I từ 2021 – 2025 (Chương trình Mục tiêu quốc gia 1719), thời gian qua, Bộ Công Thương triển khai thực hiện hai nhiệm vụ quan trọng là hướng dẫn cho các địa phương triển khai được các hoạt động: Đầu tư xây dựng và cải tạo, nâng cấp được mạng lưới chợ của vùng đồng bào dân tộc thiểu số; hỗ trợ để tiêu thụ sản phẩm của vùng đồng bào đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để đưa được hàng hóa đi xa hơn, tham gia vào thị trường trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài. Nhờ đó, hiện nay, nông sản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã ngày càng hiện diện nhiều hơn ở các kênh phân phối hiện đại. |