Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi: Khó khăn, vướng mắc và giải pháp khuyến nghị

Các kết quả đạt được

Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với trên 14 triệu người (chiếm 14% dân số cả nước), sinh sống chủ yếu ở khu vực trung du, miền núi phía Bắc, duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.

Phát triển kinh tế - xã hội khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Chương trình này bao gồm nhiều lĩnh vực, từ hỗ trợ phát triển sản xuất, cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm, nước, thông tin liên lạc), giáo dục, y tế, đến bảo tồn bản sắc văn hóa, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội, bảo vệ biên giới. Các hoạt động này được triển khai thông qua nhiều chương trình, dự án của nhà nước.

Phát triển kinh tế - xã hội khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước (Ảnh: Cấn Dũng)

Phát triển kinh tế - xã hội khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước (Ảnh: Cấn Dũng)

Trong đó “Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045” hiện đang triển khai thực hiện theo 2 giai đoạn: giai đoạn I (2021-2025) và giai đoạn II (2026-2030). Đây là một chương trình lớn tích hợp nhiều chính sách dân tộc khác nhau vào 10 dự án thành phần, với tổng vốn đầu tư rất lớn (riêng giai đoạn I là gần 138 nghìn tỷ đồng), được triển khai trên phạm vi toàn quốc, nhằm đạt 9 nhóm mục tiêu cụ thể và 24 chỉ tiêu chủ yếu.

Trong những năm qua, việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. 

Những khó khăn, vướng mắc

Song quá trình triển khai thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc. Cụ thể:

Chậm trễ trong triển khai: Một số địa phương thực hiện chương trình chậm so với tiến độ đề ra, làm giảm hiệu quả của chương trình.

Phân cấp, phân quyền chưa rõ trong thực hiện các chương trình phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, dẫn đến khó khăn trong triển khai chương trình.

Năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc ở cơ sở hạn chế, ảnh hưởng đến việc vận động và triển khai các chính sách, chương trình.

Phong tục tập quán của đồng bào lạc hậu, cản trở sự tiếp thu và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế.

Hạn chế về tiếp cận thông tin của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đặc biệt là thông tin về các chính sách, chương trình phát triển kinh tế-xã hội.

Khoảng cách phát triển lớn giữa khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa với các vùng phát triển gây khó khăn trong việc thu hẹp chênh lệch về mức sống, thu nhập.

Cần hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý và tổ chức thực hiện phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi phù hợp với đặc điểm của khu vực này (Ảnh: Cấn Dũng)

Cần hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý và tổ chức thực hiện phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi phù hợp với đặc điểm của khu vực này (Ảnh: Cấn Dũng)

Giải pháp khuyến nghị

Do khuôn khổ có hạn, bài báo nêu các khuyến nghị tổng quát, sau đó đưa ra khuyến nghị cụ thể đối với với một số vấn đề phổ biến hiện nay.

a) Khuyến nghị tổng quát

Để chương trình phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi đạt hiệu quả và đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của khu vực này, các giải pháp sau được khuyến nghị thực hiện:

Hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý và tổ chức thực hiện phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi phù hợp với đặc điểm của khu vực này.

Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào địa bàn khó khăn nhất, giải quyết các vấn đề cấp bách nhất, hỗ trợ hộ nghèo và các nhóm dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn.

Phân cấp, phân quyền mạnh hơn cho địa phương và người dân, nâng cao tính chủ động, linh hoạt trong quản lý, tổ chức thực hiện.

Giải quyết vấn đề đất ở, đất sản xuất, đảm bảo hài hòa giữa quyền lợi của người dân và yêu cầu phát triển bền vững.

Phát triển sản xuất, kinh doanh, đa dạng hóa ngành nghề, chú trọng phát triển sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số.

Nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở, tăng cường công tác cán bộ, phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng.

Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống kết hợp với phát triển du lịch cộng đồng.

b) Một số khuyến nghị cụ thể

Các vướng mắc phổ biến mà hầu như địa phương nào cũng gặp phải trong quá trình triển khai thực hiện chương trình phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi là tốc độ giải ngân chậm và vấn đề bảo đảm đất ở, đất sản xuất cho đồng bào.

Vấn đề giải ngân chậm

Dù ngân sách Nhà nước còn rất eo hẹp lại phải phân bổ thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng, Đảng và Nhà nước vẫn ưu tiên dành nguồn lực lớn cho các chương trình phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Song khi triển khai thực hiện, hầu hết các địa phương đều đối mặt với vấn đề tốc độ giải ngân chậm, tỷ lệ giải ngân thấp (hiện tượng “có tiền mà không tiêu được”). Giải ngân chậm là một vấn đề phức tạp do nhiều nguyên nhân khác nhau như:

Quy trình, thủ tục xét duyệt và giải ngân vốn quá phức tạp, gây khó khăn cho cả người dân và các đơn vị thực hiện dự án.

Năng lực hạn chế của một số địa phương vùng sâu, vùng xa trong việc lập kế hoạch, quản lý và triển khai dự án.

Việc phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành liên quan trong quá trình giải ngân chưa hiệu quả.

Kinh phí phân bổ chưa phù hợp, chưa sát nhu cầu thực tế của địa phương, chưa phân bổ kịp thời.

Để xử lý vấn đề này, xin khuyến nghị thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, đơn giản hóa, thuận lợi hóa các thủ tục hành chính trong xét duyệt và giải ngân vốn.

Thứ hai, cung cấp thông tin kịp thời và đầy đủ về chương trình, chính sách và quy trình giải ngân.

Thứ ba, tập huấn, hướng dẫn cho cán bộ và người dân địa phương về kỹ năng lập kế hoạch, quản lý dự án.

Thứ tư, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan, ban ngành liên quan trong quá trình giải ngân.

Thứ năm, phân bổ kinh phí đúng thời điểm, đúng đối tượng, đúng với nhu cầu thực tế của từng địa phương.

Bảo đảm đất ở, đất sản xuất cho đồng bào

Phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số hiện sinh sống ở nông thôn và lao động trong lĩnh vực nông nghiệp-lâm nghiệp. Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi sinh sống có địa hình tự nhiên rất phức tạp, độ dốc cao, chia cắt. Quỹ đất ở khu vực này chủ yếu là đất lâm nghiệp, trong khi đất nông nghiệp và đất ở rất hạn chế.

Hệ thống pháp luật hiện còn nhiều bất cập, khiến việc tháo gỡ vướng mắc về đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn. Việc giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số liên quan tới nhiều luật (như Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Lâm nghiệp, Luật Cư trú). Các luật này hầu như không có quy định về khắc phục tác động tiêu cực của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa đang diễn ra trên những vùng đất rộng lớn, có ảnh hưởng đến đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số. Ngay Luật Đất đai cũng chỉ đưa ra quy định mang tính nguyên tắc về sự bảo đảm của Nhà nước cho người sử dụng đất, do vậy không đáp ứng được nhu cầu về đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Để tháo gỡ vướng mắc về đất ở, đất sản xuất cho đồng bào, xin khuyến nghị thực hiện các giải pháp sau:

Hoàn thiện cơ chế, chính sách về sử dụng đất ở, đất sản xuất của đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó bổ sung các quy định cụ thể về cơ chế khuyến khích đầu tư vào vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của nhà đầu tư đối với các cá nhân và cộng đồng dân tộc thiểu số theo hướng đền bù xứng đáng và có trách nhiệm đào tạo chuyển đổi nghề, cho người dân có đất bị thu hồi.

Công tác quy hoạch sử dụng đất ở các địa phương có đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi phải gắn với tháo gỡ vướng mắc về đất ở, đất sản xuất của đồng bào.

Tạo quỹ đất hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Rà soát thu hồi diện tích đất của các nông trường và lâm trường, công ty nông nghiệp và lâm nghiệp trả lại cho địa phương để giao đất sản xuất cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất.

Trong những năm qua, việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã đạt được những kết quả tích cực, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
TS Lê Quốc Phương
Bình luận

Tin cùng chuyên mục